ANGUTTARA NIKAYA – TĂNG CHI BỘ KINH
CHÁNH KINH PALI
|
CHÚ GIẢI PALI
|
BẢN DỊCH VIỆT
|
(20) 5.
Brāhmaṇavaggo
|
(20) 5.
Brāhmaṇavaggo
|
XX. Phẩm Bà-La-Môn
|
1. Soṇasuttaṃ
|
1.
Soṇasuttavaṇṇanā
|
(I) (191) Ví Dụ Con Chó
|
191.
‘‘Pañcime , bhikkhave, porāṇā brāhmaṇadhammā
etarahi sunakhesu sandissanti, no brāhmaṇesu. Katame pañca?
|
191.
Pañcamassa paṭhame brāhmaṇadhammāti
brāhmaṇasabhāvā. Sunakhesūti kukkuresu.
Neva kiṇanti na vikkiṇantīti na gaṇhantā
kiṇanti, na dadantā vikkiṇanti. Sampiyeneva
saṃvāsaṃ saṃbandhāya sampavattentīti piyo piyaṃ upasaṅkamitvā
paveṇiyā bandhanatthaṃ saṃvāsaṃ pavattayanti .
Udarāvadehakanti udaraṃ avadihitvā
upacinitvā pūretvā. Avasesaṃ ādāya pakkamantīti
yaṃ bhuñjituṃ na sakkonti, taṃ bhaṇḍikaṃ katvā gahetvā gacchanti.
Imasmiṃ sutte vaṭṭameva kathitaṃ.
|
1. Có năm cựu Bà-la-môn pháp này,
này các Tỷ-kheo, nay được thấy giữa các con chó, không được thấy
giữa các Bà-la-môn. Thế nào là năm?
|
Pubbe sudaṃ
[pubbassudaṃ (ka.)], bhikkhave, brāhmaṇā
brāhmaṇiṃyeva gacchanti, no abrāhmaṇiṃ. Etarahi, bhikkhave, brāhmaṇā
brāhmaṇimpi gacchanti, abrāhmaṇimpi gacchanti. Etarahi, bhikkhave,
sunakhā sunakhiṃyeva gacchanti, no asunakhiṃ.
|
2. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn chỉ đi đến nữ Bà-la-môn, không đến phi nữ Bà-la-môn.
Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các nam Bà-la-môn đi đến nữ Bà-la-môn,
cũng đi đến phi nữ Bà-la-môn. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các con chó
đực chỉ đi đến con chó cái, không đi đến không phải con chó cái.
|
Ayaṃ, bhikkhave,
paṭhamo porāṇo brāhmaṇadhammo etarahi sunakhesu sandissati, no
brāhmaṇesu.
|
Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ
nhất, này các Tỷ-kheo, nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không
thấy được giữa các Bà-la-môn.
|
‘‘Pubbe sudaṃ,
bhikkhave, brāhmaṇā brāhmaṇiṃ utuniṃyeva gacchanti, no anutuniṃ.
Etarahi, bhikkhave, brāhmaṇā brāhmaṇiṃ
utunimpi gacchanti, anutunimpi gacchanti .
Etarahi, bhikkhave, sunakhā sunakhiṃ utuniṃyeva gacchanti, no
anutuniṃ.
|
2. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn chỉ đi đến nữ Bà-la-môn trong thời có thể thụ thai,
không có đi trong thời kỳ không thể thụ thai. Ngày nay, này các
Tỷ-kheo, các nam Bà-la-môn đi đến nữ Bà-la-môn trong thời có thể thụ
thai và cũng trong thời không thể thụ thai. Ngày nay, này các
Tỷ-kheo, các con chó đực chỉ đi đến con chó cái trong thời có thể
thụ thai, không đi đến trong thời kỳ không thể thụ thai.
|
Ayaṃ, bhikkhave, dutiyo porāṇo
brāhmaṇadhammo etarahi sunakhesu sandissati, no brāhmaṇesu.
|
Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ hai,
này các Tỷ-kheo, nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không thấy
được giữa các Bà-la-môn.
|
‘‘Pubbe sudaṃ,
bhikkhave, brāhmaṇā brāhmaṇiṃ neva kiṇanti no vikkiṇanti,
sampiyeneva saṃvāsaṃ saṃbandhāya [saṃsaggatthāya
(sī. pī.)] saṃpavattenti. Etarahi, bhikkhave, brāhmaṇā
brāhmaṇiṃ kiṇantipi vikkiṇantipi, sampiyenapi saṃvāsaṃ saṃbandhāya
saṃpavattenti. Etarahi, bhikkhave, sunakhā sunakhiṃ neva kiṇanti no
vikkiṇanti, sampiyeneva saṃvāsaṃ saṃbandhāya saṃpavattenti.
|
4. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn không mua, không bán nữ Bà-la-môn cọng trú trong t́nh
tương ái, tiếp tục trong sự thuận ḥa. Ngày nay, này các Tỷ-kheo,
các nam Bà-la-môn mua và bán nữ Bà-la-môn, cọng trú trong t́nh tương
ái, tiếp tục trong sự thuận ḥa. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các con
chó đực không mua, không bán con chó cái cọng trú trong t́nh tương
ái, tiếp tục trong sự thuận ḥa.
|
Ayaṃ, bhikkhave,
tatiyo porāṇo brāhmaṇadhammo etarahi sunakhesu sandissati, no
brāhmaṇesu.
|
Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ ba,
này các Tỷ-kheo, nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không thấy
được giữa các Bà-la-môn.
|
‘‘Pubbe sudaṃ,
bhikkhave, brāhmaṇā na sannidhiṃ karonti dhanassapi
dhaññassapi rajatassapi jātarūpassapi.
Etarahi, bhikkhave, brāhmaṇā sannidhiṃ karonti dhanassapi
dhaññassapi rajatassapi jātarūpassapi. Etarahi, bhikkhave, sunakhā
na sannidhiṃ karonti dhanassapi dhaññassapi rajatassapi
jātarūpassapi.
|
5. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
Bà-la-môn không cất chứa tài sản, ngũ cốc, bạc và vàng. Ngày nay,
này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn cất chứa tài sản, ngũ cốc, bạc và
vàng. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các loài chó không cất chứa tài
sản, ngũ cốc, bạc và vàng.
|
Ayaṃ, bhikkhave,
catuttho porāṇo brāhmaṇadhammo etarahi sunakhesu sandissati, no
brāhmaṇesu.
|
Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ tư,
này các Tỷ-kheo, nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không được
thấy giữa các Bà-la-môn.
|
‘‘Pubbe
sudaṃ, bhikkhave, brāhmaṇā sāyaṃ sāyamāsāya
pāto pātarāsāya bhikkhaṃ pariyesanti. Etarahi, bhikkhave, brāhmaṇā
yāvadatthaṃ udarāvadehakaṃ bhuñjitvā avasesaṃ ādāya pakkamanti.
Etarahi, bhikkhave, sunakhā sāyaṃ sāyamāsāya pāto pātarāsāya
bhikkhaṃ pariyesanti.
|
6. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
Bà-la-môn vào buổi chiều t́m đồ ăn buổi chiều, vào buổi sáng t́m đồ
ăn buổi sáng. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn ăn cho đến no
nê thỏa bụng, rồi lấy các đồ ăn c̣n lại và mang đi. Ngày nay, này
các Tỷ-kheo, các con chó, vào buổi chiều t́m đồ ăn buổi chiều, vào
buổi sáng t́m đồ ăn buổi sáng.
|
Ayaṃ, bhikkhave,
pañcamo porāṇo brāhmaṇadhammo etarahi sunakhesu sandissati, no
brāhmaṇesu.
|
Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ năm,
này các Tỷ-kheo, nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không được
thấy giữa các Bà-la-môn.
|
Ime kho,
bhikkhave, pañca porāṇā brāhmaṇadhammā etarahi sunakhesu
sandissanti, no brāhmaṇesū’’ti. Paṭhamaṃ.
|
Năm cựu Bà-la-môn pháp này, này
các Tỷ-kheo, nay được thấy giữa các loài chó, không được thấy giữa
các Bà-la-môn.
|
2.
Doṇabrāhmaṇasuttaṃ
|
2.
Doṇabrāhmaṇasuttavaṇṇanā
|
(II) (192) Bà-La-Môn Dona
|
192.
Atha kho doṇo brāhmaṇo yena bhagavā
tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ
kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho
doṇo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca –
|
192.
Dutiye tvampi noti tvampi nu.
Pavattāroti pavattayitāro.
Yesanti yesaṃ santakaṃ.
Mantapadanti vedasaṅkhātaṃ mantameva.
Gītanti aṭṭhakādīhi dasahi
porāṇakabrāhmaṇehi sarasampattivasena sajjhāyitaṃ.
Pavuttanti aññesaṃ vuttaṃ, vācitanti attho.
Samīhitanti samupabyūḷhaṃ rāsikataṃ, piṇḍaṃ
katvā ṭhapitanti attho. Tadanugāyantīti
etarahi brāhmaṇā taṃ tehi pubbehi gītaṃ anugāyanti anusajjhāyanti.
Tadanubhāsantīti taṃ anubhāsanti. Idaṃ
purimasseva vevacanaṃ. Bhāsitamanubhāsantīti
tehi bhāsitaṃ anubhāsanti.
Sajjhāyitamanusajjhāyantīti tehi sajjhāyitaṃ anusajjhāyanti.
Vācitamanuvācentīti tehi aññesaṃ vācitaṃ
anuvācenti. Seyyathidanti te katameti
attho. Aṭṭhakotiādīni tesaṃ nāmāni. Te kira
dibbena cakkhunā oloketvā parūpaghātaṃ akatvā
kassapasammāsambuddhassa bhagavato pāvacanena saha saṃsandetvā mante
ganthesuṃ. Aparāpare pana brāhmaṇā pāṇātipātādīni pakkhipitvā tayo
vede bhinditvā buddhavacanena saddhiṃ viruddhe akaṃsu.
Tyāssu’meti ettha assūti
nipātamattaṃ, te brāhmaṇā ime pañca brāhmaṇe paññāpentīti attho.
Mante adhīyamānoti vede
sajjhāyanto gaṇhanto. Ācariyadhananti
ācariyadakkhiṇaṃ ācariyabhāgaṃ. Na issatthenāti
na yodhājīvakammena uppādeti. Na rājaporisenāti
na rājupaṭṭhākabhāvena. Kevalaṃ bhikkhācariyāyāti
suddhāya bhikkhācariyāya eva. Kapālaṃanatimaññamānoti
taṃ bhikkhābhājanaṃ anatimaññamāno. So hi puṇṇapattaṃ ādāya sīsaṃ
nhāto kuladvāresu ṭhatvā ‘‘ahaṃ aṭṭhacattālīsa vassāni
komārabrahmacariyaṃ cariṃ, mantāpi me gahitā, ācariyassa
ācariyadhanaṃ dassāmi, dhanaṃ me dethā’’ti yācati. Taṃ sutvā manussā
yathāsatti yathābalaṃ aṭṭhapi soḷasapi satampi sahassampi denti.
Evaṃ sakalagāmaṃ caritvā laddhadhanaṃ ācariyassa niyyādeti. Taṃ
sandhāyetaṃ vuttaṃ. Evaṃ kho doṇa brāhmaṇo
brahmasamo hotīti evaṃ brahmavihārehi samannāgatattā brāhmaṇo
brahmasamo nāma hoti.
Nevakayena na vikkayenāti neva attanā kayaṃ katvā gaṇhāti, na parena vikkayaṃ katvā dinnaṃ.
Udakūpassaṭṭhanti udakena upassaṭṭhaṃ
pariccattaṃ. So hi yasmiṃ kule vayappattā dārikā atthi, gantvā tassa
dvāre tiṭṭhati. ‘‘Kasmā ṭhitosī’’ti vutte ‘‘ahaṃ aṭṭhacattālīsa
vassāni komārabrahmacariyaṃ cariṃ, taṃ sabbaṃ tumhākaṃ demi, tumhe
mayhaṃ dārikaṃ dethā’’ti vadati. Te dārikaṃ ānetvā tassa hatthe
udakaṃ pātetvā denti. So taṃ udakūpassaṭṭhaṃ bhariyaṃ gaṇhitvā
gacchati. Atimīḷhajoti atimīḷhe
mahāgūtharāsimhi jāto. Tassa
sāti tassa esā. Na davatthāti na
kīḷanatthā. Na ratatthāti na kāmaratiatthā.
Methunaṃuppādetvāti
dhītaraṃ vā puttaṃ vā uppādetvā ‘‘idāni paveṇi ghaṭīyissatī’’ti
nikkhamitvā pabbajati. Sugatiṃ saggaṃ lokanti
brahmalokameva sandhāyetaṃ vuttaṃ. Devasamo hotīti
dibbavihārehi samannāgatattā devasamo nāma hoti.
Tameva puttassādaṃ nikāmayamānoti
yvāssa dhītaraṃ vā puttaṃ vā jātaṃ disvā puttapemaṃ puttassādo
uppajjati, taṃ patthayamāno icchamāno. Kuṭumbaṃ
ajjhāvasatīti kuṭumbaṃ saṇṭhapetvā kuṭumbamajjhe vasati.
Sesamettha uttānamevāti.
|
1. Rồi Bà-la-môn Dona đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Dona bạch Thế Tôn:
|
‘‘Sutaṃ
metaṃ, bho gotama – ‘na samaṇo gotamo brāhmaṇe
jiṇṇe vuḍḍhe mahallake addhagate vayoanuppatte abhivādeti vā
paccuṭṭheti vā āsanena vā nimantetī’ti.
|
2. - Thưa Tôn giả Gotama, tôi có
nghe như sau: "Sa-môn Gotama không đảnh lễ, hay không đứng dậy, hay
không mời ghế các vị Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn, trưởng lăo, đời đă
được trải qua, đă đến đoạn cuối cuộc đời."
|
Tayidaṃ, bho
gotama, tatheva. Na hi bhavaṃ gotamo brāhmaṇe jiṇṇe vuḍḍhe mahallake
addhagate vayoanuppatte abhivādeti vā paccuṭṭheti vā
āsanena vā nimanteti. Tayidaṃ, bho gotama, na
sampannamevā’’ti.
|
Thưa Tôn giả Gotama, sự thể là như
vậy; Tôn giả Gotama không đảnh lễ, hay không đứng dậy, hay không mời
ghế các vị Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn, trưởng lăo, đời đă được trải
qua, đă đến đoạn cuối cuộc đời. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, thật
là không tốt đẹp.
|
‘‘Tvampi no, doṇa, brāhmaṇo
paṭijānāsī’’ti?
|
- Này Dona, Ông có tự cho ḿnh là
Bà-la-môn không?
|
‘‘Yañhi taṃ, bho
gotama, sammā vadamāno vadeyya – ‘brāhmaṇo ubhato sujāto – mātito ca
pitito ca, saṃsuddhagahaṇiko, yāva sattamā pitāmahayugā akkhito
anupakkuṭṭho jātivādena, ajjhāyako mantadharo, tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū
sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ, padako
veyyākaraṇo lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo’ti, mameva taṃ, bho
gotama, sammā vadamāno vadeyya.
|
- Thưa Tôn giả Gotama, nếu có ai
nói một cách chân chánh, vị ấy phải nói rằng: "Vị Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống
thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà tŕ chú, thông hiểu ba tập Vedà với
danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là
thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự
nhiên học) và tướng của vị Đại nhân". Thưa Tôn giả Gotama, nói về
tôi, nói một cách chơn chánh là nói như vầy.
|
Ahañhi, bho
gotama, brāhmaṇo ubhato sujāto – mātito ca pitito ca,
saṃsuddhagahaṇiko, yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho
jātivādena, ajjhāyako mantadharo, tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū
sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ, padako
veyyākaraṇo lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo’’ti.
|
Thưa Tôn giả Gotama, tôi là
Bà-la-môn, thiện sanh cả từ mẫu hệ đến phụ hệ, huyết thống thanh
tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào
về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà tŕ chú,
thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải
và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm,
biện tài về thuận thế và tướng của vị Đại nhân.
|
‘‘Ye kho, te doṇa,
brāhmaṇānaṃ pubbakā isayo mantānaṃ kattāro
mantānaṃ pavattāro, yesamidaṃ etarahi brāhmaṇā
porāṇaṃ mantapadaṃ gītaṃ pavuttaṃ samihitaṃ tadanugāyanti
tadanubhāsanti bhāsitamanubhāsanti sajjhāyitamanusajjhāyanti
vācitamanuvācenti,
|
- Này Dona, có phải các vị
Bà-la-môn thời xưa, những vị ẩn sĩ giữa các Bà-la-môn, những tác giả
các chú thuật, những nhà tụng tán các chú thuật đă hát, đă nói lên,
đă sưu tầm những Thánh cú mà nay những Bà-la-môn hiện tại cũng hát
lên, nói lên, đọc lên giống như các vị trước đă làm?
|
seyyathidaṃ –
aṭṭhako, vāmako, vāmadevo, vessāmitto, yamadaggi
[yamataggi (sī.) dī. ni. 1.284, 526, 536; ma. ni. 2.427; mahāva.
300; a. ni. 5.192 passitabbaṃ], aṅgīraso, bhāradvājo,
vāseṭṭho, kassapo, bhagu; tyāssu’me pañca brāhmaṇe paññāpenti –
brahmasamaṃ, devasamaṃ, mariyādaṃ, sambhinnamariyādaṃ,
brāhmaṇacaṇḍālaṃyeva pañcamaṃ. Tesaṃ tvaṃ doṇa, katamo’’ti?
|
Những vị ẩn sĩ ấy tên là Atthaka,
Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamadaggi, Anǵrasa, Bharadvàja,
Vàsettha, Kassapa, Bhagu. Những vị ấy tuyên bố có năm hạng Bà-la-môn
này: "Đồng đẳng với Phạm thiên, đồng đẳng với chư Thiên, các vị biết
giới hạn, các vị vượt lên giới hạn và thứ năm là Bà-la-môn bị vứt
bỏ". Này Dona, Ông là ai giữa các vị ấy?
|
‘‘Na kho mayaṃ,
bho gotama, pañca brāhmaṇe jānāma, atha kho mayaṃ brāhmaṇātveva
jānāma. Sādhu me bhavaṃ gotamo tathā dhammaṃ
desetu yathā ahaṃ ime pañca brāhmaṇe jāneyya’’nti.
|
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi
không biết năm vị Bà-la-môn này. Nhưng chúng tôi biết chúng tôi là
Bà-la-môn. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho tôi để tôi
biết được năm vị Bà-la-môn này.
|
‘‘Tena hi,
brāhmaṇa, suṇohi, sādhukaṃ manasi karohi;
bhāsissāmī’’ti.
|
- Vậy này Bà-la-môn, hăy nghe và
khéo tác ư, ta sẽ nói.
|
‘‘Evaṃ bho’’ti
|
- Thưa vâng, Tôn giả.
|
kho doṇo brāhmaṇo
bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca –
|
Bà-la-môn Dona vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
|
‘‘Kathañca, doṇa,
brāhmaṇo brahmasamo hoti?
|
3. - Thế nào, này Dona, là
Bà-la-môn đồng đẳng với Phạm Thiên?
|
Idha, doṇa,
brāhmaṇo ubhato sujāto hoti – mātito ca pitito ca,
saṃsuddhagahaṇiko, yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho
jātivādena. So aṭṭhacattālīsavassāni komārabrahmacariyaṃ
[kodhāraṃ brahmacariyaṃ (syā. ka.)] carati
mante adhīyamāno. Aṭṭhacattālīsavassāni komārabrahmacariyaṃ caritvā
mante adhīyitvā ācariyassa ācariyadhanaṃ pariyesati dhammeneva, no
adhammena.
|
Ở đây, này Dona, vị Bà-la-môn
thiện sanh cả từ mẫu hệ đến phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến
bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề
huyết thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh,
học tập chân ngôn (chú thuật). Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng
trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy t́m kiếm tài sản Đạo Sư cho
bậc Đạo Sư một cách đúng pháp, không phải phi pháp.
|
‘‘Tattha ca, doṇa,
ko dhammo?
|
Ở đây, này Dona, pháp là ǵ?
|
Neva
kasiyā na vaṇijjāya na gorakkhena na
issatthena [na issattena (ka.)] na
rājaporisena na sippaññatarena, kevalaṃ bhikkhācariyāya kapālaṃ
anatimaññamāno. So ācariyassa ācariyadhanaṃ niyyādetvā
[nīyyādetvā (sī.), nīyādetvā (pī.), niyyātetvā
(katthaci)] kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā
agārasmā anagāriyaṃ pabbajati. So evaṃ pabbajito samāno
mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ
tathā tatiyaṃ tathā catutthaṃ [catutthiṃ (sī.)],
iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ
mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena
abyāpajjena [abyāpajjhena (ka.) abyābajjhena (?)]
pharitvā viharati. Karuṇā…pe… muditā… upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ
disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ tathā tatiyaṃ tathā catutthaṃ
, iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya
sabbāvantaṃ lokaṃ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena
appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.
|
Không phải nhờ cày bừa, không phải
nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn ḅ, không phải do cung tên, không
phải do làm người của vua, không phải do một nghề ǵ khác, hoàn toàn
chỉ do khất thực, không khinh thường b́nh bát của người khất sĩ. Sau
khi giao lại tài sản Đạo sư, cho bậc Đạo sư, sau khi cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà sà, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.
Vị ấy xuất gia như vậy, biến măn một phương với tâm câu hữu với từ,
cũng vậy, phương thứ hai, cũng vậy, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy
phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với
tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với
tâm câu hữu với bi... với hỷ... với xả. Cũng vậy phương thứ hai,
cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô
biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu với xă, quảng đại,
vô biên, không hận, không sân.
|
So ime cattāro
brahmavihāre bhāvetvā kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā sugatiṃ brahmalokaṃ upapajjati.
|
Vị ấy, sau khi tụ tập bốn phạm trú
này, khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú Phạm thiên giới.
|
Evaṃ kho, doṇa,
brāhmaṇo brahmasamo hoti.
|
Như vậy, này Dona, là vị Bà-la-môn
đồng đẳng với Phạm Thiên.
|
‘‘Kathañca, doṇa,
brāhmaṇo devasamo hoti?
|
4. Và này Dona, thế nào là
Bà-la-môn đồng đẳng với Chư Thiên?
|
Idha, doṇa,
brāhmaṇo ubhato sujāto hoti – mātito ca pitito ca,
saṃsuddhagahaṇiko, yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho
jātivādena . So aṭṭhacattālīsavassāni
komārabrahmacariyaṃ carati mante adhīyamāno. Aṭṭhacattālīsavassāni
komārabrahmacariyaṃ caritvā mante adhīyitvā ācariyassa ācariyadhanaṃ
pariyesati dhammeneva, no adhammena.
|
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả tử mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết
thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học
tập châm ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học
tập chân ngôn, vị ấy t́m kiếm tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách
đúng pháp, không phải phi pháp.
|
Tattha ca, doṇa,
ko dhammo?
|
Ở đây, này Dona, pháp là ǵ?
|
Neva kasiyā na
vaṇijjāya na gorakkhena na issatthena na rājaporisena na
sippaññatarena, kevalaṃ bhikkhācariyāya kapālaṃ
anatimaññamāno. So ācariyassa ācariyadhanaṃ niyyādetvā dāraṃ
pariyesati dhammeneva, no adhammena.
|
Không phải nhờ cày bừa, không phải
nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn ḅ, không phải do cung tên, không
phải do làm người của vua, không phải do một nghề ǵ khác, hoàn toàn
chỉ do khất thực, không khinh thường b́nh bát của người khất sĩ. Sau
khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi t́m vợ một cách
đúng pháp, không phải phi pháp.
|
‘‘Tattha ca, doṇa,
ko dhammo?
|
Và này Dona, ở đây, pháp là ǵ?
|
Neva kayena na
vikkayena, brāhmaṇiṃyeva udakūpassaṭṭhaṃ. So brāhmaṇiṃyeva gacchati,
na khattiyiṃ na vessiṃ na suddiṃ na caṇḍāliṃ na nesādiṃ na veniṃ
[na veṇiṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] na
rathakāriṃ na pukkusiṃ gacchati, na gabbhiniṃ gacchati, na pāyamānaṃ
gacchati, na anutuniṃ gacchati. Kasmā ca, doṇa, brāhmaṇo na
gabbhiniṃ gacchati?
|
Không phải do mua, không phải do
bán, nhưng chỉ với một nữ Bà-la-môn đă được nước tưới lên, vị ấy đi
đến nữ Bà-la-môn, không đi đến nữ Sát-đế-lỵ, nữ Tỳ-xá, nữ Thủ-đà, nữ
Chiên-đà-la, nữ săn bắn, nữ đan tre, nữ làm xe, nữ thổ dân, không đi
đến người đàn bà có mang, không đi đến người đàn bà cho con bú,
không đi đến người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ thai. Và này
Dona, v́ sao người Bà-la-môn không đi đến người đàn bà có mang?
|
Sace, doṇa,
brāhmaṇo gabbhiniṃ gacchati, atimīḷhajo nāma so hoti māṇavako vā
māṇavikā [māṇavakī (ka.)] vā
. Tasmā, doṇa, brāhmaṇo na gabbhiniṃ gacchati.
Kasmā ca, doṇa, brāhmaṇo na pāyamānaṃ gacchati?
|
Này Dona, nếu người Bà-la-môn đi
đến người đàn bà có mang, thời đứa đồng nam hay đồng nữ được sanh
hoàn toàn bị ô uế; do vậy, này Dona, vị Bà-la-môn không đi đến người
đàn bà có mang. Và v́ sao, này Dona, Bà-la-môn không đi đến người
đàn bà cho con bú?
|
Sace, doṇa,
brāhmaṇo pāyamānaṃ gacchati, asucipaṭipīḷito nāma so hoti māṇavako
vā māṇavikā vā. Tasmā, doṇa, brāhmaṇo na pāyamānaṃ gacchati.
|
Này Dona, nếu Bà-la-môn đi đến
người đàn bà cho con bú, thời này Dona, đứa đồng nam hay đồng nữ bú
sữa không được thanh tịnh; do vậy, này Dona, vị Bà-la-môn không đi
đến người đàn bà cho con bú. Và v́ sao, này Dona, Bà-la-môn không đi
đến người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ thai?
|
Tassa sā hoti
brāhmaṇī neva kāmatthā na davatthā na ratatthā, pajatthāva
brāhmaṇassa brāhmaṇī hoti. So methunaṃ uppādetvā kesamassuṃ ohāretvā
kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajati. So evaṃ
pabbajito samāno vivicceva kāmehi…pe… catutthaṃ jhānaṃ upasampajja
viharati. So ime cattāro jhāne bhāvetvā
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ
lokaṃ upapajjati. Evaṃ kho, doṇa, brāhmaṇo devasamo hoti.
|
Này Dona, nếu vị Bà-la-môn đi đến
người đàn bà trong thời không thể thụ thai, thời nữ Bà-la-môn ấy trở
thành một phương tiện để thỏa ḷng dục, để vui đùa, để thỏa thích.
Nữ Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn chỉ có mục đích đẻ con. Vị ấy từ
dâm dục (đúng pháp) sinh con rồi, liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa,
xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Vị ấy xuất gia như
vậy, ly dục, ly pháp bất thiện... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư.
Vị ấy, sau khi tu tập bốn Thiền, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh lên cơi lành, Thiên giới, cơi đời này. Như vậy, này Dona, là
Bà-la-môn đồng đẳng với chư Thiên.
|
‘‘Kathañca, doṇa,
brāhmaṇo mariyādo hoti?
|
5. Và thế nào, này Dona, là một
Bà-la-môn có giới hạn?
|
Idha, doṇa,
brāhmaṇo ubhato sujāto hoti – mātito ca pitito ca,
saṃsuddhagahaṇiko, yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho
jātivādena. So aṭṭhacattālīsavassāni komārabrahmacariyaṃ carati
mante adhīyamāno. Aṭṭhacattālīsavassāni komārabrahmacariyaṃ caritvā
mante adhīyitvā ācariyassa ācariyadhanaṃ pariyesati dhammeneva, no
adhammena . Tattha ca, doṇa, ko dhammo?
|
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết
thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học
tập chân ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học
tập chân ngôn, vị ấy t́m kiếm tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách
đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là ǵ?
|
Neva kasiyā na
vaṇijjāya na gorakkhena na issatthena na rājaporisena na
sippaññatarena, kevalaṃ bhikkhācariyāya kapālaṃ anatimaññamāno. So
ācariyassa ācariyadhanaṃ niyyādetvā dāraṃ pariyesati dhammeneva, no
adhammena.
|
Không phải nhờ cày bừa, không phải
nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn ḅ, không phải do cung tên, không
phải do làm người của vua, không phải do một nghề ǵ khác, hoàn toàn
chỉ do khất thực, không khinh thường b́nh bát của người khất sĩ. Sau
khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi t́m vợ một cách
đúng pháp, không phải phi pháp.
|
‘‘Tattha ca, doṇa
, ko dhammo?
|
Và này Dona, ở đây, pháp là ǵ?
|
Neva kayena na
vikkayena, brāhmaṇiṃyeva udakūpassaṭṭhaṃ. So brāhmaṇiṃyeva gacchati,
na khattiyiṃ na vessiṃ na suddiṃ na caṇḍāliṃ na nesādiṃ na veniṃ na
rathakāriṃ na pukkusiṃ gacchati, na gabbhiniṃ gacchati, na pāyamānaṃ
gacchati, na anutuniṃ gacchati. Kasmā ca, doṇa, brāhmaṇo na
gabbhiniṃ gacchati?
|
Không phải do mua, không phải do
bán, nhưng chỉ với một nữ Bà-la-môn đă được nước tưới lên, vị ấy đi
đến nữ Bà-la-môn, không đi đến nữ Sát-đế-lỵ, nữ Tỳ-xá, nữ Thủ-đà, nữ
Chiên-đà-la, nữ săn bắn, nữ đan tre, nữ làm xe, nữ thổ dân, không đi
đến người đàn bà có mang, không đi đến người đàn bà cho con bú,
không đi đến người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ thai. Và này
Dona, v́ sao người Bà-la-môn không đi đến người đàn bà có mang?
|
Sace, doṇa,
brāhmaṇo gabbhiniṃ gacchati, atimīḷhajo nāma so hoti māṇavako vā
māṇavikā vā. Tasmā, doṇa, brāhmaṇo na gabbhiniṃ gacchati. Kasmā ca,
doṇa, brāhmaṇo na pāyamānaṃ gacchati? Sace, doṇa, brāhmaṇo pāyamānaṃ
gacchati, asucipaṭipīḷito nāma so hoti māṇavako vā māṇavikā vā.
Tasmā, doṇa, brāhmaṇo na pāyamānaṃ gacchati. Tassa sā hoti brāhmaṇī
neva kāmatthā na davatthā na ratatthā, pajatthāva brāhmaṇassa
brāhmaṇī hoti. So methunaṃ uppādetvā tameva puttassādaṃ nikāmayamāno
kuṭumbaṃ ajjhāvasati, na agārasmā anagāriyaṃ pabbajati. Yāva
porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ mariyādo tattha tiṭṭhati, taṃ na vītikkamati.
‘Yāva porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ mariyādo tattha brāhmaṇo ṭhito taṃ na
vītikkamatī’ti, kho, doṇa, tasmā brāhmaṇo mariyādoti vuccati. Evaṃ
kho, doṇa, brāhmaṇo mariyādo hoti.
|
Này Dona, nếu vị Bà-la-môn đi đến
người đàn bà có mang...(như trên)...Nữ Bà-la-môn đối với nam
Bà-la-môn chỉ có mục đích đẻ con. Vị ấy từ dâm dục (đúng pháp) sinh
con rồi, do ưa thích con nít, sống trong gia đ́nh, không xuất gia từ
bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Cho đến sự giới hạn của các
Bà-la-môn thời xưa, vị ấy đứng tại đấy, không vượt qua giới hạn ấy.
Cho đến giới hạn của các Bà-la-môn thời xưa, vị ấy đứng ở đấy, không
vượt qua giới hạn ấy. Này Dona, do vậy Bà-la-môn được gọi là có giới
hạn. Như vậy, này Dona, là Bà-la-môn có giới hạn.
|
‘‘Kathañca, doṇa,
brāhmaṇo sambhinnamariyādo hoti?
|
6. Và này Dona, thế nào là một
Bà-la-môn vượt qua giới hạn?
|
Idha
, doṇa, brāhmaṇo ubhato sujāto hoti – mātito
ca pitito ca, saṃsuddhagahaṇiko, yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto
anupakkuṭṭho jātivādena
. So aṭṭhacattālīsavassāni komārabrahmacariyaṃ carati mante
adhīyamāno. Aṭṭhacattālīsavassāni komārabrahmacariyaṃ caritvā mante
adhīyitvā ācariyassa ācariyadhanaṃ pariyesati dhammeneva, no
adhammena.
|
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ... về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy
trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn. Sau khi
sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy
t́m kiếm tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách đúng pháp, không phải
phi pháp.
|
‘‘Tattha ca, doṇa,
ko dhammo?
|
Ở đây, này Dona, pháp là ǵ?
|
Neva kasiyā na
vaṇijjāya na gorakkhena na issatthena na rājaporisena na
sippaññatarena, kevalaṃ bhikkhācariyāya kapālaṃ anatimaññamāno. So
ācariyassa ācariyadhanaṃ niyyādetvā dāraṃ
pariyesati dhammenapi adhammenapi kayenapi vikkayenapi brāhmaṇimpi
udakūpassaṭṭhaṃ. So brāhmaṇimpi gacchati khattiyimpi gacchati
vessimpi gacchati suddimpi gacchati caṇḍālimpi gacchati nesādimpi
gacchati venimpi gacchati rathakārimpi gacchati pukkusimpi gacchati
gabbhinimpi gacchati pāyamānampi gacchati utunimpi gacchati
anutunimpi gacchati. Tassa sā hoti brāhmaṇī kāmatthāpi davatthāpi
ratatthāpi pajatthāpi brāhmaṇassa brāhmaṇī hoti. Yāva porāṇānaṃ
brāhmaṇānaṃ mariyādo tattha na tiṭṭhati, taṃ vītikkamati. ‘Yāva
porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ mariyādo tattha brāhmaṇo na ṭhito taṃ
vītikkamatī’ti kho, doṇa, tasmā brāhmaṇo sambhinnamariyādoti
vuccati. Evaṃ kho, doṇa, brāhmaṇo sambhinnamariyādo hoti.
|
Không phải nhờ cày bừa, không phải
nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn ḅ, không phải do cung tên, không
phải do làm người của vua, không phải do một nghề ǵ khác, hoàn toàn
chỉ do khất thực, không khinh thường b́nh bát của người khất sĩ. Sau
khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi t́m vợ một cách
đúng pháp và phi pháp. Do mua, do bán với nữ Bà-la-môn được nước
tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, cũng đi đến nữ Sát-đế-lỵ, cũng
đi đến nữ Tỳ-xá, cũng đi đến nữ Thủ-đà, cũng đi đến nữ Chiên-đà-la,
cũng đi đến nữ săn bắn, cũng đi đến nữ đan tre, cũng đi đến nữ làm
xe, cũng đi đến nữ thổ dân, cũng đi đến người đàn bà có mang, cũng
đi đến người đàn bà đang cho con bú, cũng đi đến người đàn bà trong
thời kỳ không thể thụ thai. Nữ Bà-la-môn đối với vị ấy là phương
tiện để thỏa ḷng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối
với nam Bà-la-môn có mục đích đẻ con. Cho đến sự giới hạn của các
Bà-la-môn thời xưa, vị ấy không đứng tại đấy, vị ấy vượt qua giới
hạn ấy. Cho đến giới hạn của các Bà-la-môn thời xưa, vị ấy không
đứng ở đấy, vị ấy vượt qua giới hạn ấy. Này Dona, do vậy Bà-la-môn
được gọi vị đă vượt qua giới hạn. Như vậy, này Dona, là Bà-la-môn
vượt qua giới hạn.
|
‘‘Kathañca, doṇa,
brāhmaṇo brāhmaṇacaṇḍālo hoti?
|
7. Và này Dona, thế nào là
Bà-la-môn Chiên-đà-la?
|
Idha, doṇa,
brāhmaṇo ubhato sujāto hoti – mātito ca pitito ca,
saṃsuddhagahaṇiko, yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto
anupakkuṭṭho jātivādena. So
aṭṭhacattālīsavassāni komārabrahmacariyaṃ
carati mante adhīyamāno. Aṭṭhacattālīsavassāni komārabrahmacariyaṃ
caritvā mante adhīyitvā ācariyassa ācariyadhanaṃ pariyesati
dhammenapi adhammenapi kasiyāpi vaṇijjāyapi gorakkhenapi
issatthenapi rājaporisenapi sippaññatarenapi, kevalampi
bhikkhācariyāya, kapālaṃ anatimaññamāno.
‘‘So ācariyassa
ācariyadhanaṃ niyyādetvā dāraṃ pariyesati dhammenapi adhammenapi
kayenapi vikkayenapi brāhmaṇimpi udakūpassaṭṭhaṃ. So brāhmaṇimpi
gacchati khattiyimpi gacchati vessimpi gacchati suddimpi gacchati
caṇḍālimpi gacchati nesādimpi gacchati venimpi gacchati rathakārimpi
gacchati pukkusimpi gacchati gabbhinimpi gacchati pāyamānampi
gacchati utunimpi gacchati anutunimpi gacchati. Tassa sā hoti
brāhmaṇī kāmatthāpi davatthāpi ratatthāpi pajatthāpi brāhmaṇassa
brāhmaṇī hoti. So sabbakammehi jīvikaṃ
[jīvitaṃ (ka.)] kappeti. Tamenaṃ brāhmaṇā
evamāhaṃsu – ‘kasmā bhavaṃ brāhmaṇo paṭijānamāno sabbakammehi
jīvikaṃ kappetī’ti? So evamāha – ‘seyyathāpi, bho, aggi sucimpi
ḍahati asucimpi ḍahati, na ca tena aggi upalippati
[upalimpati (ka.)]; evamevaṃ kho, bho,
sabbakammehi cepi brāhmaṇo jīvikaṃ kappeti, na ca tena brāhmaṇo
upalippati’. ‘Sabbakammehi jīvikaṃ kappetī’ti kho, doṇa
, tasmā brāhmaṇo brāhmaṇacaṇḍāloti vuccati.
Evaṃ kho, doṇa, brāhmaṇo brāhmaṇacaṇḍālo hoti.
|
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết
thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học
tập chân ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học
tập chân ngôn, vị ấy t́m kiếm tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách
đúng pháp và phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là ǵ? Không phải nhờ
cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn ḅ, không phải
do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một nghề
ǵ khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường b́nh bát của
người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy
đi t́m vợ một cách đúng pháp và phi pháp. Do mua, do bán với nữ
Bà-la-môn được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, cũng đi đến
nữ Sát-đế-lỵ, cũng đi đến nữ Tỳ-xá, cũng đi đến nữ Thủ-đà, cũng đi
đến nữ Chiên-đà-la, cũng đi đến nữ săn bắn, cũng đi đến nữ đan tre,
cũng đi đến nữ làm xe, cũng đi đến nữ thổ dân, cũng đi đến người đàn
bà có mang, cũng đi đến người đàn bà đang cho con bú, cũng đi đến
người đàn bà trong thời kỳ không thể thụ thai. Nữ Bà-la-môn đối với
vị ấy là phương tiện để thỏa ḷng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ
Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn có mục đích đẻ con. Vị ấy để nuôi
mạng sống, làm tất cả nghề. Rồi các Bà-la-môn nói với vị ấy như sau:
"Sao Tôn giả tự cho ḿnh là Bà-la-môn, lại làm tất cả nghề để nuôi
mạng sống?" Vị ấy trả lời như sau: "Như lửa đốt vật sạch, cũng đốt
vật nhớp, nhưng không phải v́ vậy mà ngọn lửa bị uế nhiễm". Cũng
vậy, này các Tôn giả, nếu Bà-la-môn làm tất cả nghề để nuôi mạng
sống, nhưng không phải v́ vậy mà Bà-la-môn bị uế nhiễm. V́ làm tất
cả nghề để nuôi mạng sống, này Dona, nên Bà-la-môn được gọi là
Bà-la-môn Chiên-đà-la. Như vậy, này Dona, là Bà-la-môn Chiên-đà-la.
|
‘‘Ye kho te, doṇa,
brāhmaṇānaṃ pubbakā isayo mantānaṃ kattāro
mantānaṃ pavattāro yesamidaṃ etarahi brāhmaṇā porāṇaṃ mantapadaṃ
gītaṃ pavuttaṃ samīhitaṃ tadanugāyanti tadanubhāsanti
bhāsitamanubhāsanti sajjhāyitamanusajjhāyanti vācimanuvācenti,
|
8. Này Dona, có phải các Bà-la-môn
thời xưa, những vị ẩn sĩ giữa các Bà-la-môn, những tác giả các chú
thuật, những nhà tụng tán các chú thuật đă hát, đă nói lên, đă sưu
tầm những Thánh cú mà nay, những Bà-la-môn hiện tại cũng hát lên,
đọc lên giống như các vị trước đă làm.
|
seyyathidaṃ –
aṭṭhako, vāmako, vāmadevo, vessāmitto, yamadaggi, aṅgīraso,
bhāradvājo, vāseṭṭho , kassapo, bhagu;
tyāssume pañca brāhmaṇe paññāpenti – brahmasamaṃ, devasamaṃ,
mariyādaṃ, sambhinnamariyādaṃ, brāhmaṇacaṇḍālaṃyeva pañcamaṃ. Tesaṃ
tvaṃ, doṇa, katamo’’ti?
|
Những vị ấy tên là Atthaka,
Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamadaggi, Anǵrasa, Bhàradvàja,
Vàsettha, Kassapa, Bhagu. Những vị ấy tuyên bố có năm hạng Bà-la-môn
này: "Vị đồng đẳng với Phạm thiên, vị đồng đẳng với chư Thiên, các
vị có giới hạn, các vị vượt lên giới hạn và thứ năm là Bà-la-môn
Chiên-đà-la". Này Dona, Ông là ai giữa các vị ấy?
|
‘‘Evaṃ sante
mayaṃ, bho gotama, brāhmaṇacaṇḍālampi na pūrema. Abhikkantaṃ, bho
gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ
saraṇaṃ gata’’nti. Dutiyaṃ.
|
- Như vậy, thưa Tôn giả Gotama,
chúng con chưa thành tựu đầy đủ Bà-la-môn Chiên-đà-la. Thật vi diệu
thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama!... Mong Tôn
giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ. Từ nay cho đến mạng chung con
trọn đời quy ngưỡng.
|
3. Saṅgāravasuttaṃ
|
3.
Saṅgāravasuttavaṇṇanā
|
(III) (193) Bà-La-Môn Sangarava
|
193.
Atha kho saṅgāravo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ
sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho
saṅgāravo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca –
|
193.
Tatiye pagevāti paṭhamaññeva.
Kāmarāgapariyuṭṭhitenāti kāmarāgaggahitena.
Kāmarāgaparetenāti kāmarāgānugatena.
Nissaraṇanti tividhaṃ kāmarāgassa
nissaraṇaṃ vikkhambhananissaraṇaṃ, tadaṅganissaraṇaṃ,
samucchedanissaraṇanti. Tattha asubhe paṭhamajjhānaṃ
vikkhambhananissaraṇaṃ nāma, vipassanā tadaṅganissaraṇaṃ nāma,
arahattamaggo samucchedanissaraṇaṃ nāma. Taṃ tividhampi
nappajānātīti attho. Attatthampītiādīsu
arahattasaṅkhāto attano attho attattho nāma, paccayadāyakānaṃ attho
parattho nāma, sveva duvidho ubhayattho nāma. Iminā nayena
sabbavāresu attho veditabbo.
Ayaṃ pana viseso –
byāpādassa nissaraṇantiādīsu hi dveva
nissaraṇāni vikkhambhananissaraṇañca samucchedanissaraṇañca. Tattha
byāpādassa tāva mettāya paṭhamajjhānaṃ vikkhambhananissaraṇaṃ nāma,
anāgāmimaggo samucchedanissaraṇaṃ, thinamiddhassa ālokasaññā
vikkhambhananissaraṇaṃ , arahattamaggo
samucchedanissaraṇaṃ. Uddhaccakukkuccassa yo
koci samatho vikkhambhananissaraṇaṃ, uddhaccassa panettha
arahattamaggo, kukkuccassa anāgāmimaggo samucchedanissaraṇaṃ.
Vicikicchāya dhammavavatthānaṃ vikkhambhananissaraṇaṃ, paṭhamamaggo
samucchedanissaraṇaṃ.
Yā panettha
seyyathāpi, brāhmaṇa, udapatto saṃsaṭṭho lākhāya
vātiādikā upamā vuttā, tāsu udapattoti
udakabharitā pāti. Saṃsaṭṭhoti
vaṇṇabhedakaraṇavasena saṃsaṭṭho.
Ukkudhitoti kudhito.
Ussadakajātoti usumakajāto.
Sevālapaṇakapariyonaddhoti tilabījakādibhedena sevālena vā
nīlamaṇḍūkapiṭṭhivaṇṇena vā udakapiṭṭhiṃ chādetvā nibbattena
paṇakena pariyonaddho. Vāteritoti vātena
erito kampito. Āviloti appasanno.
Luḷitoti asannisinno.
Kalalībhūtoti kaddamībhūto. Andhakāre
nikkhittoti koṭṭhakantarādibhede anālokaṭṭhāne ṭhapito.
Imasmiṃ sutte bhagavā tīhi bhavehi desanaṃ nivaṭṭetvā
arahattanikūṭena niṭṭhapesi, brāhmaṇo pana saraṇamatte patiṭṭhitoti.
|
1. Rồi Bà-la-môn Sangàrava đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Sangàrava thưa với Thế
Tôn:
|
‘‘ko nu kho, bho
gotama, hetu ko paccayo, yena kadāci dīgharattaṃ sajjhāyakatāpi
mantā nappaṭibhanti, pageva asajjhāyakatā?
|
2. - Do nhân ǵ, do duyên ǵ, thưa
Tôn giả Gotama, có khi các chú thuật học thuộc ḷng lâu ngày (đọc
tụng) lại không thể nhớ lên được, c̣n nói ǵ các chú thuật không
được học thuộc ḷng?
|
Ko pana, bho
gotama, hetu ko paccayo, yena kadāci dīgharattaṃ asajjhāyakatāpi
mantā paṭibhanti, pageva sajjhāyakatā’’ti?
|
Do nhân ǵ, do duyên ǵ, thưa Tôn
giả Gotama, có khi các chú thuật không học thuộc ḷng lâu ngày (đọc
tụng) lại nhớ lên được, c̣n nói ǵ các chú thuật đă được học thuộc
ḷng!
|
‘‘Yasmiṃ, brāhmaṇa, samaye kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā
viharati kāmarāgaparetena, uppannassa ca kāmarāgassa nissaraṇaṃ
yathābhūtaṃ nappajānāti , attatthampi tasmiṃ
samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na passati, paratthampi tasmiṃ
samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na passati,
ubhayatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na passati,
dīgharattaṃ sajjhāyakatāpi mantā nappaṭibhanti, pageva
asajjhāyakatā.
|
3. - Này Bà-la-môn, khi trú với tâm bị dục tham xâm chiếm, bị
dục tham chi phối, và không như thật biết rơ sự xuất ly khỏi dục
tham đă khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy
lợi ích của ḿnh, trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy
lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích
cả hai, cho nên các chú thuật được học thuộc ḷng lâu ngày lại không
thể nhớ lên được, c̣n nói ǵ các chú thuật không được học thuộc
ḷng!
|
Seyyathāpi,
brāhmaṇa, udapatto saṃsaṭṭho lākhāya vā haliddiyā vā nīliyā vā
mañjiṭṭhāya vā. Tattha cakkhumā puriso sakaṃ
mukhanimittaṃ paccavekkhamāno yathābhūtaṃ nappajāneyya
na passeyya. Evamevaṃ kho, brāhmaṇa, yasmiṃ
samaye kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā viharati kāmarāgaparetena,
uppannassa ca kāmarāgassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti,
attatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na passati,
paratthampi…pe… ubhayatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti
na passati, dīgharattaṃ sajjhāyakatāpi mantā nappaṭibhanti, pageva
asajjhāyakatā.
|
Ví như, này Bà-la-môn, một bát
nước trộn lẫn với thuốc nhuộm gôm lặc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh
hay màu vàng và ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía bóng mặt của
ḿnh, không có thể như thật biết được, thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị dục tham xâm chiếm, bị dục tham
chi phối, không như thật rơ biết sự xuất ly khỏi dục tham đă khởi
lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của
ḿnh; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người;
trong khi ấy, không như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai,
cho nên các chú thuật được học thuộc ḷng lâu ngày lại không nhớ lên
được, c̣n nói ǵ các chú thuật không được học thuộc ḷng!
|
‘‘Puna caparaṃ,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye byāpādapariyuṭṭhitena cetasā viharati
byāpādaparetena, uppannassa ca byāpādassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ
nappajānāti, attatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na
passati, paratthampi…pe… ubhayatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ
nappajānāti na passati, dīgharattaṃ sajjhāyakatāpi mantā
nappaṭibhanti, pageva asajjhāyakatā.
|
4. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị sân xâm chiếm, bị sân chi phối, không như thật biết sự
xuất ly khỏi sân đă khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật
biết và thấy lợi ích của ḿnh; trong khi ấy, không như thật biết và
thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy
được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật được học thuộc ḷng
lâu ngày lại không thể nhớ lên được, c̣n nói ǵ các chú thuật không
được học thuộc ḷng!
|
Seyyathāpi,
brāhmaṇa, udapatto agginā santatto ukkudhito
[ukkaṭṭhito (sī. pī.), ukkuṭṭhito (syā. kaṃ.)] ussadakajāto
[usumakajāto (katthaci), ussurakajāto (ka.),
usmudakajāto (ma. ni. 3 majjhimanikāye)]. Tattha cakkhumā
puriso sakaṃ mukhanimittaṃ paccavekkhamāno yathābhūtaṃ nappajāneyya
na passeyya.
|
Ví như, này Bà-la-môn, một bát
nước được lửa đun sôi, sôi lên sùng sục, sôi lên cuồn cuộn. Ở đây,
một người có mắt muốn ngắm nghía bóng mặt của ḿnh, không thể như
thật biết và thấy được.
|
Evamevaṃ kho,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye byāpādapariyuṭṭhitena cetasā viharati
byāpādaparetena, uppannassa ca byāpādassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ
nappajānāti, attatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na
passati, paratthampi…pe… ubhayatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ
nappajānāti na passati, dīgharattaṃ sajjhāyakatāpi mantā
nappaṭibhanti , pageva asajjhāyakatā.
|
Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi
trú với tâm bị sân xâm chiếm...cho nên các chú thuật được học thuộc
ḷng lâu ngày lại không nhớ lên được, c̣n nói ǵ các chú thuật không
được học thuộc ḷng!
|
‘‘Puna caparaṃ,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye thinamiddhapariyuṭṭhitena cetasā viharati
thinamiddhaparetena, uppannassa ca thinamiddhassa nissaraṇaṃ
yathābhūtaṃ nappajānāti, attatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ
nappajānāti na passati, paratthampi…pe… ubhayatthampi tasmiṃ samaye
yathābhūtaṃ nappajānāti na passati,
dīgharattaṃ sajjhāyakatāpi mantā nappaṭibhanti, pageva
asajjhāyakatā.
|
5. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, bị hôn trầm thụy miên chi
phối, không như thật biết sự xuất ly khỏi hôn trầm thụy miên, đă
khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích
của ḿnh; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của
người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy được lợi ích của cả
hai, cho nên các chú thuật được học thuộc ḷng lâu ngày lại không
thể nhớ lên được, c̣n nói ǵ các chú thuật không được học thuộc
ḷng!
|
Seyyathāpi,
brāhmaṇa, udapatto sevālapaṇakapariyonaddho. Tattha cakkhumā puriso
sakaṃ mukhanimittaṃ paccavekkhamāno yathābhūtaṃ nappajāneyya na
passeyya. Evamevaṃ kho, brāhmaṇa, yasmiṃ samaye
thinamiddhapariyuṭṭhitena cetasā viharati thinamiddhaparetena,
uppannassa ca thinamiddhassa nissaraṇaṃ
yathābhūtaṃ nappajānāti, attatthampi tasmiṃ
samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na passati, paratthampi…pe…
ubhayatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na passati,
dīgharattaṃ sajjhāyakatāpi mantā nappaṭibhanti, pageva
asajjhāyakatā.
|
Ví như, này Bà-la-môn, một bát
nước bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía
khuôn mặt của ḿnh, không thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy,
này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị hôn trầm thụy miên xâm
chiếm... c̣n nói ǵ các chú thuật không được học thuộc ḷng!
|
‘‘Puna caparaṃ,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye uddhaccakukkuccapariyuṭṭhitena cetasā
viharati uddhaccakukkuccaparetena, uppannassa ca uddhaccakukkuccassa
nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti, attatthampi tasmiṃ samaye
yathābhūtaṃ nappajānāti na passati, paratthampi…pe… ubhayatthampi
tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na passati, dīgharattaṃ
sajjhāyakatāpi mantā nappaṭibhanti, pageva asajjhāyakatā.
|
6. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị trạo hối xâm chiếm, bị trạo hối chi phối, không như thật
biết sự xuất ly khỏi trạo hối đă khởi lên; trong khi ấy, người ấy
không như thật biết và thấy lợi ích của ḿnh; trong khi ấy, không
như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như
thật biết và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật
được học thuộc ḷng lâu ngày lại không thể nhớ lên được, c̣n nói ǵ
các chú thuật không được học thuộc ḷng!
|
Seyyathāpi,
brāhmaṇa, udapatto vāterito calito bhanto ūmijāto
[ummijāto (pī.)]. Tattha cakkhumā puriso sakaṃ mukhanimittaṃ
paccavekkhamāno yathābhūtaṃ nappajāneyya na passeyya. Evamevaṃ kho,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye uddhaccakukkuccapariyuṭṭhitena cetasā
viharati uddhaccakukkuccaparetena, uppannassa ca uddhaccakukkuccassa
nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti, attatthampi tasmiṃ samaye
yathābhūtaṃ nappajānāti na passati, paratthampi…pe… ubhayatthampi
tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na passati, dīgharattaṃ
sajjhāyakatāpi mantā nappaṭibhanti, pageva
asajjhāyakatā.
|
Ví như, này Bà-la-môn, một bát
nước bị gió thổi, dao động, chấn động, nổi sóng. Ở đây, một người có
mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của ḿnh, không thể như thật biết được
và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị trạo
hối xâm chiếm... c̣n nói ǵ các chú thuật không được học thuộc ḷng!
|
‘‘Puna caparaṃ,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye vicikicchāpariyuṭṭhitena cetasā viharati
vicikicchāparetena , uppannāya ca vicikicchāya
nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti, attatthampi tasmiṃ samaye
yathābhūtaṃ nappajānāti na passati, paratthampi…pe… ubhayatthampi
tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na passati, dīgharattaṃ
sajjhāyakatāpi mantā nappaṭibhanti, pageva asajjhāyakatā.
|
7. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị nghi hoặc xâm chiếm, bị nghi hoặc chi phối, không như
thật biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đă khởi lên; trong khi ấy,
người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của ḿnh; trong khi ấy,
không như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không
như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật
được học thuộc ḷng lâu ngày lại không thể nhớ lên được, c̣n nói ǵ
các chú thuật không được học thuộc ḷng!
|
Seyyathāpi,
brāhmaṇa, udapatto āvilo luḷito kalalībhūto andhakāre nikkhitto.
Tattha cakkhumā puriso sakaṃ mukhanimittaṃ paccavekkhamāno
yathābhūtaṃ nappajāneyya na passeyya. Evamevaṃ kho, brāhmaṇa, yasmiṃ
samaye vicikicchāpariyuṭṭhitena cetasā viharati vicikicchāparetena,
uppannāya ca vicikicchāya nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti,
attatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti na passati,
paratthampi…pe… ubhayatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ nappajānāti
na passati, dīgharattaṃ sajjhāyakatāpi mantā nappaṭibhanti, pageva
asajjhāyakatā.
|
Ví như, này Bà-la-môn, một bát
nước bị khuấy động, khuấy đục, khuấy bùn, đặt trong bóng tối. Ở đây,
một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của ḿnh, không thể như
thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú
với tâm bị nghi hoặc xâm chiếm, bị nghi hoặc chi phối... c̣n nói ǵ
các chú thuật không được học thuộc ḷng!
|
‘‘Yasmiñca
kho, brāhmaṇa, samaye na
kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā viharati na kāmarāgaparetena,
uppannassa ca kāmarāgassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ pajānāti,
attatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ pajānāti passati, paratthampi
tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ pajānāti passati, ubhayatthampi tasmiṃ
samaye yathābhūtaṃ pajānāti passati, dīgharattaṃ asajjhāyakatāpi
mantā paṭibhanti, pageva sajjhāyakatā.
|
8. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm không bị dục tham xâm chiếm, không bị dục tham chi phối, lại
như thật rơ biết sự xuất ly của các dục tham đă khởi lên; trong khi
ấy, như thật biết và thấy lợi ích của ḿnh; trong khi ấy, như thật
biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy
được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật không được học thuộc
ḷng lâu ngày được nhớ lên, c̣n nói ǵ các chú thuật đă được học
thuộc ḷng!
|
Seyyathāpi,
brāhmaṇa, udapatto asaṃsaṭṭho lākhāya vā haliddiyā vā nīliyā vā
mañjiṭṭhāya vā. Tattha cakkhumā puriso sakaṃ
mukhanimittaṃ paccavekkhamāno yathābhūtaṃ pajāneyya passeyya.
Evamevaṃ kho, brāhmaṇa, yasmiṃ samaye na kāmarāgapariyuṭṭhitena
cetasā viharati…pe… .
|
Ví như, này Bà-la-môn, một bát
nước không trộn lẫn với thuốc nhuộm hoặc gôm lặc, hay màu đỏ tía,
hay màu xanh, hay màu vàng, và ở đây, một người có mắt muốn ngắm
nghía khuôn mặt của ḿnh, có thể như thật biết được và thấy được.
Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị dục tham xâm
chiếm... c̣n nói ǵ các chú thuật đă được học thuộc ḷng!
|
‘‘Puna caparaṃ,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye na byāpādapariyuṭṭhitena cetasā viharati…pe…
seyyathāpi, brāhmaṇa, udapatto agginā asantatto anukkudhito
anussadakajāto. Tattha cakkhumā puriso sakaṃ mukhanimittaṃ
paccavekkhamāno yathābhūtaṃ pajāneyya passeyya. Evamevaṃ kho,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye na byāpādapariyuṭṭhitena cetasā
viharati…pe….
|
9. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm không bị sân xâm chiếm... c̣n nói ǵ các chú thuật đă được
học thuộc ḷng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát
nước không bị lửa đun sôi, không sôi lên sùng sục, không sôi lên
cuồn cuộn. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của
ḿnh, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị sân xâm chiếm, không bị
sân chi phối... c̣n nói ǵ các chú thuật đă được học thuộc ḷng!
|
‘‘Puna caparaṃ,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye na thinamiddhapariyuṭṭhitena cetasā
viharati…pe… seyyathāpi, brāhmaṇa, udapatto na
sevālapaṇakapariyonaddho. Tattha cakkhumā puriso sakaṃ mukhanimittaṃ
paccavekkhamāno yathābhūtaṃ pajāneyya passeyya. Evamevaṃ kho,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye na thinamiddhapariyuṭṭhitena cetasā
viharati…pe….
|
10. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi
trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm
thụy miên chi phối... c̣n nói ǵ các chú thuật đă được học thuộc
ḷng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát
nước không bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm
nghía khuôn mặt của ḿnh, có thể như thật biết được và thấy được.
Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị hôn trầm
thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm thụy miên chi phối... c̣n nói
ǵ các chú thuật đă được học thuộc ḷng!
|
‘‘Puna caparaṃ,
brāhmaṇa , yasmiṃ samaye na
uddhaccakukkuccapariyuṭṭhitena cetasā viharati…pe… seyyathāpi,
brāhmaṇa, udapatto na vāterito na calito na bhanto na ūmijāto.
Tattha cakkhumā puriso sakaṃ mukhanimittaṃ paccavekkhamāno
yathābhūtaṃ pajāneyya passeyya. Evamevaṃ kho, brāhmaṇa, yasmiṃ
samaye na uddhaccakukkuccapariyuṭṭhitena cetasā viharati
…pe….
|
11. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi
trú với tâm không bị trạo hối xâm chiếm, không bị trạo hối chi
phối... c̣n nói ǵ các chú thuật đă được học thuộc ḷng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát
nước không bị gió thổi, không bị dao động, không bị chấn động, không
bị nổi sóng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của
ḿnh, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị trạo hối miên xâm chiếm,
không bị trạo hối chi phối... c̣n nói ǵ các chú thuật đă được học
thuộc ḷng!
|
‘‘Puna caparaṃ,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye na vicikicchāpariyuṭṭhitena cetasā viharati
na vicikicchāparetena, uppannāya ca vicikicchāya nissaraṇaṃ
yathābhūtaṃ pajānāti , attatthampi tasmiṃ
samaye yathābhūtaṃ pajānāti passati, paratthampi tasmiṃ samaye
yathābhūtaṃ pajānāti passati, ubhayatthampi tasmiṃ samaye
yathābhūtaṃ pajānāti passati, dīgharattaṃ asajjhāyakatāpi
mantā paṭibhanti, pageva sajjhāyakatā.
Seyyathāpi, brāhmaṇa, udapatto accho vippasanno anāvilo āloke
nikkhitto. Tattha cakkhumā puriso sakaṃ mukhanimittaṃ
paccavekkhamāno yathābhūtaṃ pajāneyya passeyya. Evamevaṃ kho,
brāhmaṇa, yasmiṃ samaye na vicikicchāpariyuṭṭhitena cetasā viharati
na vicikicchāparetena, uppannāya ca vicikicchāya nissaraṇaṃ
yathābhūtaṃ pajānāti, attatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ pajānāti
passati, paratthampi…pe… ubhayatthampi tasmiṃ samaye yathābhūtaṃ
pajānāti passati, dīgharattaṃ asajjhāyakatāpi mantā paṭibhanti,
pageva sajjhāyakatā.
|
12. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi
trú với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị nghi hoặc chi
phối... c̣n nói ǵ các chú thuật không được học thuộc ḷng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát
nước thuần tịnh, trong sáng không bị khuấy động, đặt giữa ánh sáng.
Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của ḿnh, có thể như thật
biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm
không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị nghi hoặc chi phối và như
thật biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đă khởi lên; trong khi ấy,
như thật biết và thấy lợi ích của ḿnh; trong khi ấy như thật biết
và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi
ích cả hai. Cho nên các chú thuật không được học thuộc ḷng lâu ngày
được nhớ lên, c̣n nói ǵ các chú thuật đă được học thuộc ḷng!
|
‘‘Ayaṃ kho,
brāhmaṇa, hetu ayaṃ paccayo, yena kadāci dīgharattaṃ sajjhāyakatāpi
mantā nappaṭibhanti, pageva asajjhāyakatā .
Ayaṃ pana, brāhmaṇa, hetu ayaṃ paccayo, yena kadāci dīgharattaṃ
asajjhāyakatāpi mantā paṭibhanti, pageva sajjhāyakatā’’ti.
|
Đây là nhân, đây là duyên, này
Bà-la-môn, có khi các chú thuật không được học thuộc ḷng lâu ngày,
lại có thể nhớ lên được, c̣n nói ǵ các chú thuật đă được học thuộc
ḷng!
|
‘‘Abhikkantaṃ, bho gotama…pe…
upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ
gata’’nti. Tatiyaṃ.
|
13. Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Sangàrava bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn...từ này cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
|
4.
Kāraṇapālīsuttaṃ
|
4.
Kāraṇapālīsuttavaṇṇanā
|
(IV) (194) Ba La Môn Kàranapàli
|
194.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ.
Tena kho pana samayena kāraṇapālī [karaṇapālī
(ka.)] brāhmaṇo licchavīnaṃ kammantaṃ kāreti. Addasā kho
kāraṇapālī brāhmaṇo piṅgiyāniṃ brāhmaṇaṃ dūratova
āgacchantaṃ; disvā piṅgiyāniṃ brāhmaṇaṃ etadavoca –
|
194.
Catutthe kāraṇapālīti pāloti tassa nāmaṃ,
rājakulānaṃ pana kammante kāretīti kāraṇapālī nāma jāto.
Kammantaṃkāretīti
pātova uṭṭhāya dvāraṭṭālakapākāre akate kāreti, jiṇṇe paṭijaggāpeti.
Piṅgiyāniṃ brāhmaṇanti evaṃnāmakaṃ
anāgāmiphale patiṭṭhitaṃ ariyasāvakaṃ brāhmaṇaṃ. So kira pātova
uṭṭhāya gandhamālādīni gāhāpetvā satthu santikaṃ gantvā vanditvā
gandhamālādīhi pūjetvā nagaraṃ āgacchati, idaṃ brāhmaṇassa devasikaṃ
vattanti. Taṃ so evaṃ vattaṃ katvā āgacchantaṃ addasa.
Etadavocāti ‘‘ayaṃ brāhmaṇo paññavā
ñāṇuttaro, kahaṃ nu kho pātova gantvā āgacchatī’’ti cintetvā
anukkamena santikaṃ āgataṃ sañjānitvā ‘‘handa kuto nū’’tiādivacanaṃ
avoca.
Tattha
divā divassāti divasassāpi divā,
majjhanhikakāleti attho. Paṇḍito maññeti
bhavaṃ piṅgiyānī samaṇaṃ gotamaṃ paṇḍitoti maññati, udāhu noti
ayamettha attho. Ko cāhaṃ, bhoti, bho,
samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyajānane ahaṃ ko nāma?
Ko ca samaṇassa gotamassa
paññāveyyattiyaṃ jānissāmīti kuto cāhaṃ samaṇassa gotamassa
paññāveyyattiyaṃ jānissāmi, kena nāma kāraṇena jānissāmīti evaṃ
sabbathāpi attano ajānanabhāvaṃ dīpeti. Sopi
nūnassa tādisovāti yo samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ
jāneyya, sopi nūna dasa pāramiyo pūretvā sabbaññutaṃ patto tādiso
buddhoyeva bhaveyya. Sineruṃ vā hi pathaviṃ vā
ākāsaṃ vā pametukāmena tappamāṇo daṇḍo vā
rajju vā laddhuṃ vaṭṭati, samaṇassa gotamassa paññaṃ jānantenapi
tassa ñāṇasadisameva sabbaññutaññāṇaṃ laddhuṃ vaṭṭatīti dīpeti.
Ādaravasena panettha āmeḍitaṃ kataṃ. Uḷārāyāti
uttamāya seṭṭhāya. Ko cāhaṃ, bhoti, bho,
ahaṃ samaṇassa gotamassa pasaṃsane ko nāma. Ko ca
samaṇaṃ gotamaṃ pasaṃsissāmīti kena kāraṇena pasaṃsissāmi.
Pasatthappasatthoti
sabbaguṇānaṃ upari carehi sabbalokapasatthehi attano guṇeheva
pasattho, na tassa aññehi pasaṃsanakiccaṃ atthi. Yathā hi
campakapupphaṃ vā nīluppalaṃ vā padumaṃ vā lohitacandanaṃ vā attano
vaṇṇagandhasiriyāva pāsādikañceva sugandhañca, na tassa āgantukehi
vaṇṇagandhehi thomanakiccaṃ atthi. Yathā ca maṇiratanaṃ vā
candamaṇḍalaṃ vā attano ālokeneva obhāsati, na tassa aññena
obhāsanakiccaṃ atthi, evaṃ samaṇo gotamo sabbalokapasatthehi attano
guṇeheva pasattho thomito, sabbalokassa seṭṭhataṃ pāpito. Na tassa
aññena pasaṃsanakiccaṃ atthi.
Pasatthehi vā
pasatthotipi pasatthappasattho. Ke pana
pasatthā nāma? Rājā pasenadi kosalo kāsikosalavāsikehi pasattho,
bimbisāro aṅgamagadhavāsīhi, vesālikā licchavī vajjitaṭṭhavāsīhi
pasatthā, pāveyyakā mallā kosinārakā mallā aññepi te te khattiyā
tehi tehi jānapadehi pasatthā, caṅkiādayo brāhmaṇā brāhmaṇagaṇehi,
anāthapiṇḍikādayo upāsakā upāsakagaṇehi, visākhāādikā upāsikā
anekasatāhi upāsikāhi, sakuludāyiādayo paribbājakā anekehi
paribbājakasatehi, uppalavaṇṇattheriādikā mahāsāvikā anekehi
bhikkhunisatehi, sāriputtattherādayo mahātherā
anekasatehi bhikkhūhi, sakkādayo devā anekasahassehi devehi,
mahābrahmādayo brahmāno anekasahassehi brahmehi pasatthā. Te sabbepi
dasabalaṃ thomenti vaṇṇenti pasaṃsantīti bhagavā
‘‘pasatthappasattho’’ti vuccati. Atthavasanti
atthānisaṃsaṃ.
Athassa
so attano pasādakāraṇaṃ
ācikkhanto seyyathāpi, bho, purisotiādimāha.
Tattha aggarasaparitittoti bhojanarasesu
pāyāso sneharasesu gosappi, kasāvarasesu khuddakamadhu aneḷakaṃ,
madhurarasesu sakkarāti evamādayo aggarasā nāma. Tesu yena kenaci
parititto ākaṇṭhappamāṇaṃ bhuñjitvā ṭhito. Aññesaṃ
hīnānanti aggarasehi aññesaṃ hīnarasānaṃ.
Suttasoti suttato, suttabhāvenāti attho. Sesupi eseva nayo.
Tato tatoti suttādīsu tato tato.
Aññesaṃ puthusamaṇabrāhmaṇāppavādānanti ye
aññesaṃ puthūnaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ laddhisaṅkhātappavādā, tesaṃ.
Na pihetīti na pattheti, te kathiyamāne
sotumpi na icchati. Jighacchādubbalyaparetoti
jighacchāya ceva dubbalabhāvena ca anugato.
Madhupiṇḍikanti sālipiṭṭhaṃ bhajjitvā catumadhurena yojetvā
kataṃ baddhasattupiṇḍikaṃ, madhurapūvameva vā.
Adhigaccheyyāti labheyya.
Asecanakanti madhurabhāvakaraṇatthāya
aññena rasena anāsittakaṃ ojavantaṃ paṇītarasaṃ.
Haricandanassāti
suvaṇṇavaṇṇacandanassa. Lohitacandanassāti
rattavaṇṇacandanassa. Surabhigandhanti
sugandhaṃ. Darathādayo vaṭṭadarathā,
vaṭṭakilamathā, vaṭṭapariḷāhā eva. Udānaṃ udānesīti
udāhāraṃ udāhari. Yathā hi yaṃ telaṃ mānaṃ gahetuṃ na sakkoti,
vissanditvā gacchati, taṃ avasekoti vuccati. Yañca jalaṃ taḷākaṃ
gahetuṃ na sakkoti, ajjhottharitvā gacchati, taṃ oghoti vuccati.
Evamevaṃ yaṃ pītivacanaṃ hadayaṃ gahetuṃ na sakkoti, adhikaṃ hutvā
anto asaṇṭhahitvā bahi nikkhamati, taṃ udānanti vuccati. Evarūpaṃ
pītimayavacanaṃ nicchāresīti attho.
|
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàĺ,
tại Mahàvana, chỗ giảng đường có nóc nhọn. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn
Kàranapàli đang xây dựng nhà cho Licchav́. Bà-la-môn Kàranapàli thấy
Bà-la-môn Pingiyàni từ đường xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với
Bà-la-môn Pingiyàni:
|
‘‘Handa, kuto nu
bhavaṃ piṅgiyānī āgacchati divā divassā’’ti?
|
- Tôn giả Pingiyàni đi từ đâu đến
sớm như vậy?
|
‘‘Itohaṃ
[idhāhaṃ (syā. kaṃ.), ito hi kho ahaṃ (ma. ni.
1.288)], bho, āgacchāmi samaṇassa gotamassa santikā’’ti.
|
- Thưa Tôn giả, tôi đi từ chỗ
Sa-môn Gotama về.
|
‘‘Taṃ kiṃ maññati bhavaṃ, piṅgiyānī,
samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ? Paṇḍito
maññe’’ti?
|
- Tôn giả Pingiyàni nghĩ thế nào
về trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama? Ngài có nghĩ vị ấy là một
bậc Hiền trí chăng?
|
‘‘Ko cāhaṃ, bho,
ko ca samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jānissāmi! Sopi nūnassa
tādisova yo samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jāneyyā’’ti!
|
- Tôi là ai, thưa Tôn giả, lại có
thể biết được trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama. Chỉ có ai như vị
ấy, mới có thể biết được trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama.
|
‘‘Uḷārāya khalu
bhavaṃ, piṅgiyānī, samaṇaṃ gotamaṃ pasaṃsāya pasaṃsatī’’ti. ‘‘Ko
cāhaṃ, bho, ko ca samaṇaṃ gotamaṃ
pasaṃsissāmi!
|
Thật là cao thượng lời Tôn giả
Pingiyàni tán thán Sa-môn Gotama. "Tôi là ai, thưa Tôn giả, lại có
thể nói lời tán thán Sa-môn Gotama".
|
Pasatthappasatthova [pasaṭṭhapasaṭṭho ca (syā.
kaṃ. ka.)] so bhavaṃ gotamo seṭṭho devamanussāna’’nti. ‘‘Kiṃ
pana bhavaṃ, piṅgiyānī, atthavasaṃ sampassamāno samaṇe gotame evaṃ
abhippasanno’’ti?
|
Được tán thán bởi những bậc được
tán thán là Tôn giả Gotama, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài
Người. Tôn giả Pingyiàni thấy những lợi ích ǵ lại cực lực tin tưởng
Sa-môn Gotama như vậy?
|
‘‘Seyyathāpi, bho,
puriso aggarasaparititto na aññesaṃ hīnānaṃ rasānaṃ piheti; evamevaṃ
kho, bho, yato yato tassa bhoto gotamassa
dhammaṃ suṇāti – yadi suttaso, yadi geyyaso, yadi veyyākaraṇaso,
yadi abbhutadhammaso – tato tato na aññesaṃ
puthusamaṇabrāhmaṇappavādānaṃ piheti.
|
- Thưa Tôn giả, ví như một người
đă thỏa măn với vị ngọt tối thượng sẽ không c̣n thèm muốn các vị
ngọt hạ liệt khác. Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đă nghe pháp của Tôn
giả Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Kư thuyết, Vị tằng hữu pháp..,
thời không c̣n thèm muốn các lư thuyết của những người khác, của các
Sa-môn, Bà-la-môn thấp kém.
|
‘‘Seyyathāpi, bho,
puriso jighacchādubbalyapareto madhupiṇḍikaṃ adhigaccheyya. So yato
yato sāyetha, labhateva [sāyeyya, labhetheva (ma.
ni. 1.205)] sādurasaṃ asecanakaṃ; evamevaṃ kho, bho, yato
yato tassa bhoto gotamassa dhammaṃ suṇāti – yadi suttaso, yadi
geyyaso, yadi veyyākaraṇaso, yadi abbhutadhammaso – tato tato
labhateva attamanataṃ, labhati cetaso pasādaṃ.
|
Ví như, thưa Tôn giả, một người bị
đói lả và mệt mỏi, t́m được một bánh mật, cứ mỗi miếng vị ấy được
nếm, cứ mỗi miếng vị ấy được thưởng thức vị ngọt thuần nhất. Cũng
vậy, thưa Tôn giả, khi đă được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế
kinh, Phúng tụng, Kư thuyết, Vị tằng hữu pháp...vị ấy được hoan hỷ,
tâm được tịnh tín.
|
‘‘Seyyathāpi, bho,
puriso candanaghaṭikaṃ adhigaccheyya – haricandanassa vā
lohitacandanassa vā. So yato yato ghāyetha – yadi mūlato, yadi
majjhato, yadi aggato – adhigacchateva
[adhigacchetheva (?)] surabhigandhaṃ
asecanakaṃ; evamevaṃ kho, bho, yato yato tassa bhoto gotamassa
dhammaṃ suṇāti – yadi suttaso, yadi geyyaso, yadi veyyākaraṇaso,
yadi abbhutadhammaso – tato tato adhigacchati pāmojjaṃ adhigacchati
somanassaṃ.
|
Ví như, thưa Tôn giả, một người
t́m được một cành cây chiên-đàn, chiên-đàn vàng hay chiên-đàn đỏ,
chỗ nào người ấy ngửi hoặc từ nơi rễ, hoặc từ nơi chặng giữa, hoặc
từ nơi ngọn, người ấy được hương thơm thuần diệu. Cũng vậy, thưa Tôn
giả, khi đă được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng
tụng, Kư thuyết, Vị tằng hữu pháp...thời vị ấy được thưởng thức hân
hoan, được thưởng thức hoan hỷ.
|
‘‘Seyyathāpi, bho,
puriso ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. Tassa kusalo bhisakko ṭhānaso
ābādhaṃ nīhareyya; evamevaṃ kho, bho, yato yato tassa bhoto
gotamassa dhammaṃ suṇāti – yadi suttaso, yadi geyyaso, yadi
veyyākaraṇaso, yadi abbhutadhammaso – tato tato
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā abbhatthaṃ gacchanti.
|
Ví như, thưa Tôn giả, một người bị
bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, rồi có vị lương y lập tức chữa cho
khỏi bệnh. Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đă được nghe pháp của Tôn giả
Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Kư thuyết, Vị tằng hữu pháp...khi
ấy, sầu bi khổ ưu năo đi đến tiêu diệt.
|
‘‘Seyyathāpi
, bho, pokkharaṇī
acchodakā sātodakā sītodakā setakā supatitthā ramaṇīyā. Atha puriso
āgaccheyya ghammābhitatto ghammapareto kilanto tasito pipāsito
. So taṃ pokkharaṇiṃ ogāhetvā nhātvā ca
pivitvā ca sabbadarathakilamathapariḷāhaṃ paṭippassambheyya.
|
Ví như, thưa Tôn giả, một hồ sen,
có nước trong, có nước ngọt, có nước mát, có nước mát trong, có bờ
hồ khéo sắp đặt, đẹp đẽ, rồi một người đi đến, bị nóng nhiệt năo, bị
nóng bức bách, mệt mỏi, thèm uống nước, khát nước. Người ấy, sau khi
lặn xuống trong hồ sen ấy, sau khi tắm rửa, uống nước, tất cả khổ
cực mệt mỏi, nhiệt năo đều được lắng dịu.
|
Evamevaṃ kho, bho,
yato yato tassa bhoto gotamassa dhammaṃ suṇāti – yadi suttaso, yadi
geyyaso, yadi veyyākaraṇaso, yadi abbhutadhammaso – tato tato
sabbadarathakilamathapariḷāhā paṭippassambhantī’’ti.
|
Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đă
được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Kư
thuyết, Vị tằng hữu pháp...khi ấy tất cả khổ cực, mệt mỏi, nhiệt năo
đều được chỉ tức.
|
Evaṃ vutte
kāraṇapālī brāhmaṇo uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā
dakkhiṇaṃ jāṇumaṇḍalaṃ pathaviyaṃ nihantvā yena bhagavā tenañjaliṃ
paṇāmetvā tikkhattuṃ udānaṃ udānesi –
|
2. Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Karanapàli từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y qua một bên vai, đầu
gối bên phải quỳ trên mặt đất, chắp tay hướng đến Thế Tôn, và ba lần
thốt lên lời cảm hứng sau đây:
|
‘‘Namo tassa
bhagavato arahato sammāsambuddhassa;
Namo tassa
bhagavato arahato sammāsambuddhassa;
Namo tassa
bhagavato arahato sammāsambuddhassā’’ti.
|
- Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác! Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!
Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!
|
‘‘Abhikkantaṃ, bho
piṅgiyāni, abhikkantaṃ, bho piṅgiyāni! Seyyathāpi, bho piṅgiyāni,
nikkujjitaṃ [nikujjitaṃ (ka.)] vā
ukkujjeyya paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya
andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya –
cakkhumanto rūpāni dakkhantīti; evamevaṃ bhotā piṅgiyāninā
anekapariyāyena dhammo pakāsito. Esāhaṃ, bho piṅgiyāni, taṃ
bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.
Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ piṅgiyānī dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ
gata’’nti. Catutthaṃ.
|
- Thật vi diệu thay, Tôn giả
Pingiyàni! Thật vi diệu thay, Tôn giả Pingiyàni! Thưa Tôn giả
Pingiyàni, như người dựng đứng lại những ǵ bị quăng ngă xuống, phơi
bày ra những ǵ bị che kín, chỉ đường cho những kẻ đi lạc hướng, đem
đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng
vậy, Chánh pháp đă được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tŕnh bày
giải thích. Thưa Tôn giả Pingiyàni, con nay xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo. Tôn giả Pingyàni hăy chấp nhận
con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng.
|
5. Piṅgiyānīsuttaṃ
|
5.
Piṅgiyānīsuttavaṇṇanā
|
(V) (195) Bà La Môn Pingiyani
|
195.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ.
Tena kho pana samayena pañcamattāni licchavisatāni bhagavantaṃ
payirupāsanti. Appekacce licchavī nīlā honti nīlavaṇṇā nīlavatthā
nīlālaṅkārā, appekacce licchavī pītā honti pītavaṇṇā pītavatthā
pītālaṅkārā , appekacce licchavī lohitakā
honti lohitakavaṇṇā lohitakavatthā lohitakālaṅkārā, appekacce
licchavī odātā honti odātavaṇṇā odātavatthā
odātālaṅkārā. Tyassudaṃ bhagavā atirocati vaṇṇena ceva yasasā ca.
|
195.
Pañcame nīlāti idaṃ sabbasaṅgāhikaṃ.
Nīlavaṇṇātiādi tasseva vibhāgadassanaṃ.
Tattha na tesaṃ pakativaṇṇo nīlo, nīlavilepanavilittattā panetaṃ
vuttaṃ. Nīlavatthāti
paṭadukūlakoseyyādīnipi tesaṃ nīlāneva honti.
Nīlālaṅkārāti nīlamaṇīhi nīlapupphehi alaṅkatā, tesaṃ
hatthālaṅkāra-assālaṅkāra-rathālaṅkāra-sāṇivitānakañcukāpi sabbe
nīlāyeva honti. Iminā nayena sabbapadesu attho veditabbo.
Padumaṃyathāti
yathā satapattaṃ rattapadumaṃ. Kokanadanti
tasseva vevacanaṃ. Pātoti pageva
suriyuggamanakāle . Siyāti
bhaveyya. Avītagandhanti
avigatagandhaṃ. Aṅgīrasanti bhagavato
aṅgamaṅgehi rasmiyo niccharanti, tasmā aṅgīrasoti vuccati.
Tapantamādiccamivantalikkheti
dvisahassadīpaparivāresu catūsu mahādīpesu ālokakaraṇavasena
antalikkhe tapantaṃ ādiccaṃ viya virocamānaṃ.
Aṅgīrasaṃ passāti attānameva vā mahājanaṃ vā sandhāya evaṃ
vadati.
|
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàĺ,
tại Mahàvana, chỗ giảng đường có nóc nhọn, có khoảng 500 người
Licchavi hầu hạ Thế Tôn. Một số người Licchavi toàn xanh, màu sắc
xanh, mặc vải màu xanh, mang đồ trang sức màu xanh. Một số người
Licchavi toàn vàng, màu sắc vàng, mặc vải màu vàng, mang đồ trang
sức màu vàng. Một số người Licchavi toàn đỏ, màu sắc đỏ, mặc vải màu
đỏ, mang đồ trang sức màu đỏ. Một số người Licchavi toàn trắng, màu
sắc trắng, mặc vải màu trắng, mang đồ trang sức màu trắng. Nhưng
thật sự Thế Tôn đă chói sáng với dung sắc và sự huy hoàng.
|
Atha
kho piṅgiyānī brāhmaṇo uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ
uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ
etadavoca –
|
Rồi Bà-la-môn Pingiyàni từ chỗ
ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng đến Thế
Tôn và bạch Thế Tôn:
|
‘‘paṭibhāti maṃ, bhagavā, paṭibhāti
maṃ, sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ piṅgiyānī’’ti bhagavā avoca. Atha
kho piṅgiyānī brāhmaṇo bhagavato sammukhā sāruppāya gāthāya
abhitthavi –
|
- Điều này được nói lên cho con,
bạch Thế Tôn! Điều này được nói lên cho con, bạch Thế Tôn!
- Hăy nói lên, này Pingiyàni!
Thế Tôn nói như vậy. Rồi Bà-la-môn
Pingiyàni trước mặt Thế Tôn, nói lên bài kệ thích đáng:
|
‘‘Padmaṃ
[padumaṃ (ka.) saṃ. ni. 1.132] yathā
kokanadaṃ [kokanudaṃ (syā. kaṃ.)]
sugandhaṃ,
Pāto siyā
phullamavītagandhaṃ;
Aṅgīrasaṃ passa
virocamānaṃ,
Tapantamādiccamivantalikkhe’’ti.
|
Như loại hoa sen hồng,
Buổi sáng hương ngào ngạt,
Khi đóa hoa càng nở,
Hương thơm càng ngát hương.
Xem Anǵrasa,
Chiếu hào quang sáng chói,
Chói sáng thật rực rỡ,
Như mặt trời trên không.
|
Atha kho te
licchavī pañcahi uttarāsaṅgasatehi piṅgiyāniṃ brāhmaṇaṃ acchādesuṃ.
Atha kho piṅgiyānī brāhmaṇo tehi pañcahi uttarāsaṅgasatehi
bhagavantaṃ acchādesi .
|
Rồi các người Licchavi ấy đem 500
thượng y dâng đắp cho Bà-la-môn Pingiyàni. Và Bà-la-môn Pingiyàni
đem 500 thượng y ấy dâng đắp cho Thế Tôn.
|
Atha kho bhagavā
te licchavī etadavoca –
|
Thế Tôn nói với các vị ấy:
|
‘‘pañcannaṃ,
licchavī, ratanānaṃ pātubhāvo dullabho lokasmiṃ. Katamesaṃ
pañcannaṃ?
|
2. - Này các Licchav́, sự xuất
hiện của năm châu báu khó t́m được ở đời. Thế nào là năm?
|
Tathāgatassa
arahato sammāsambuddhassa pātubhāvo dullabho lokasmiṃ.
Tathāgatappaveditassa dhammavinayassa desetā puggalo dullabho
lokasmiṃ. Tathāgatappaveditassa dhammavinayassa desitassa viññātā
puggalo dullabho lokasmiṃ. Tathāgatappaveditassa dhammavinayassa
desitassa viññātā dhammānudhammappaṭipanno
puggalo dullabho lokasmiṃ. Kataññū katavedī puggalo dullabho
lokasmiṃ.
|
3. Sự xuất hiện của Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khó t́m được ở đời. Người thuyết được Pháp
Luật do Như Lai tuyên bố khó t́m được ở đời. Người hiểu được Pháp
Luật do Như Lai tuyên bố khó t́m được ở đời. Người thực hành pháp và
tùy pháp, sau khi đă hiểu rơ lời thuyết giảng về Pháp và Luật do Như
Lai tuyên thuyết, khó t́m được ở đời. Người biết ơn, nhớ ơn khó t́m
được ở đời.
|
Imesaṃ kho,
licchavī, pañcannaṃ ratanānaṃ pātubhāvo dullabho lokasmi’’nti
[a. ni. 5.143]. Pañcamaṃ.
|
Này các Licchavi, sự xuất hiện của
năm loại châu báu này khó t́m được ở đời.
|
6.
Mahāsupinasuttaṃ
|
6.
Mahāsupinasuttavaṇṇanā
|
(VI) (196) Mộng
|
196.
‘‘Tathāgatassa, bhikkhave, arahato sammāsambuddhassa pubbeva
sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato pañca mahāsupinā
pāturahesuṃ. Katame pañca?
|
196.
Chaṭṭhe mahāsupināti mahantehi purisehi
passitabbato mahantānañca atthānaṃ nimittabhāvato mahāsupinā.
Pāturahesunti pākaṭā ahesuṃ. Tattha supinaṃ
passanto catūhi kāraṇehi passati dhātukkhobhato vā anubhūtapubbato
vā devatopasaṃhārato vā pubbanimittato vāti.
Tattha pittādīnaṃ
khobhakaraṇapaccayappayogena khubhitadhātuko
dhātukkhobhato supinaṃ passati. Passanto ca nānāvidhaṃ
supinaṃ passati pabbatā patanto viya, ākāsena gacchanto viya,
vāḷamigahatthicorādīhi anubaddho viya ca.
Anubhūtapubbato passanto pubbe anubhūtapubbaṃ ārammaṇaṃ
passati. Devatopasaṃhārato passantassa
devatā atthakāmatāya vā anatthakāmatāya vā atthāya vā anatthāya vā
nānāvidhāni ārammaṇāni upasaṃharanti. So tāsaṃ devatānaṃ ānubhāvena
tāni ārammaṇāni passati. Pubbanimittato
passanto puññāpuññavasena uppajjitukāmassa atthassa vā anatthassa vā
pubbanimittabhūtaṃ supinaṃ passati bodhisattamātā viya
puttapaṭilābhanimittaṃ, kosalarājā viya soḷasa supine, ayameva
bhagavā bodhisattabhūto ime pañca mahāsupine viya cāti.
Tattha yaṃ
dhātukkhobhato anubhūtapubbato ca supine passati, na taṃ saccaṃ
hoti. Yaṃ devatopasaṃhārato passati, taṃ saccaṃ vā hoti alikaṃ vā.
Kuddhā hi devatā upāyena vināsetukāmā
viparītampi katvā dassenti. Yaṃ pana pubbanimittato passati, taṃ
ekantaṃ saccameva hoti. Etesaṃ catunnaṃ
mūlakāraṇānaṃ saṃsaggabhedatopi supinabhedo hotiyeva.
Taṃ panetaṃ
catubbidhampi supinaṃ sekhaputhujjanāva passanti
appahīnavipallāsattā, asekhā na passanti
pahīnavipallāsattā. Kiṃ panetaṃ passanto sutto passati paṭibuddho,
udāhu neva sutto na paṭibuddhoti? Kiñcettha yadi tāva sutto passati,
abhidhammavirodho āpajjati. Bhavaṅgacittena hi supati, taṃ
rūpanimittādiārammaṇaṃ rāgādisampayuttaṃ vā na hoti. Supinaṃ
passantassa ca īdisāni cittāni uppajjanti. Atha paṭibuddho passati,
vinayavirodho āpajjati. Yañhi paṭibuddho passati, taṃ
sabbohārikacittena passati. Sabbohārikacittena ca kate vītikkame
anāpatti nāma natthi. Supinaṃ passantena pana katepi vītikkame
ekantaṃ anāpatti eva. Atha neva sutto na paṭibuddho passati, na nāma
passati. Evañca sati supinassa abhāvo ca āpajjati? Na abhāvo. Kasmā?
Yasmā kapimiddhapareto passati. Vuttañhetaṃ – ‘‘kapimiddhapareto
kho, mahārāja, supinaṃ passatī’’ti.
Kapimiddhaparetoti
makkaṭaniddāya yutto. Yathā hi makkaṭassa niddā lahuparivattā hoti,
evaṃ yā niddā punappunaṃ kusalādicittavokiṇṇattā lahuparivattā,
yassā pavattiyaṃ punappunaṃ bhavaṅgato uttaraṇaṃ hoti, tāya yutto
supinaṃ passati. Tenāyaṃ supino kusalopi hoti akusalopi abyākatopi.
Tattha supinante cetiyavandanadhammassavanadhammadesanādīni
karontassa kusalo, pāṇātipātādīni karontassa
akusalo, dvīhi antehi mutto āvajjanatadārammaṇakkhaṇe abyākatoti
veditabbo. Svāyaṃ dubbalavatthukattā cetanāya paṭisandhiṃ ākaḍḍhituṃ
asamattho. Pavatte pana aññehi kusalākusalehi upatthambhito vipākaṃ
deti. Kiñcāpi vipākaṃ deti, atha kho avisaye uppannattā abbohārikāva
supinantacetanā. So panesa supino kālavasenapi divā tāva diṭṭho na
sameti, tathā paṭhamayāme majjhimayāme pacchimayāme ca.
Balavapaccūse pana asitapītakhāyite sammā pariṇāmaṃ gate kāyasmiṃ
ojāya patiṭṭhitāya aruṇe uggacchamāneva diṭṭho
supino sameti. Iṭṭhanimittaṃ supinaṃ passanto iṭṭhaṃ
paṭilabhati, aniṭṭhanimittaṃ passanto aniṭṭhaṃ.
Ime pana pañca
mahāsupine neva lokiyamahājano passati, na mahārājāno, na
cakkavattirājāno, na aggasāvakā, na paccekabuddhā, na
sammāsambuddhā, eko sabbaññubodhisattoyeva passati. Amhākaṃ pana
bodhisatto kadā ime supine passīti? ‘‘Sve buddho bhavissāmī’’ti
cātuddasiyaṃ pakkhassa rattivibhāyanakāle passi. Terasiyantipi
vadantiyeva. So ime supine disvā uṭṭhāya pallaṅkaṃ ābhuñjitvā
nisinno cintesi – ‘‘sace mayā
kapilavatthunagare ime supinā diṭṭhā assu, pitu mahārājassa
katheyyaṃ. Sace pana me mātā jīveyya, tassā katheyyaṃ. Imasmiṃ kho
pana ṭhāne imesaṃ paṭiggāhako nāma natthi, ahameva
paṭigaṇhissāmī’’ti. Tato ‘‘idaṃ imassa
pubbanimittaṃ idaṃ imassā’’ti sayameva supine paṭiggaṇhitvā
uruvelagāme sujātāya dinnaṃ pāyāsaṃ paribhuñjitvā bodhimaṇḍaṃ āruyha
bodhiṃ patvā anukkamena jetavane viharanto attano makulabuddhakāle
diṭṭhe pañca mahāsupine vitthāretuṃ bhikkhū āmantetvā imaṃ desanaṃ
ārabhi.
Tattha
mahāpathavīti cakkavāḷagabbhaṃ pūretvā
ṭhitā mahāpathavī. Mahāsayanaṃ ahosīti
sirisayanaṃ ahosi. Ohitoti ṭhapito. So pana
na udakasmiṃyeva ṭhapito ahosi, atha kho pācīnasamuddassa
uparūparibhāgena gantvā pācīnacakkavāḷamatthake ṭhapito ahosīti
veditabbo. Pacchime samudde dakkhiṇe samuddeti
etesupi eseva nayo. Tiriyā nāma tiṇajātīti
dabbatiṇaṃ vuccati. Nābhiyā uggantvā nabhaṃ āhacca
ṭhitā ahosīti naṅgalamattena rattadaṇḍena nābhito uggantvā
passantassa passantasseva vidatthimattaṃ ratanamattaṃ byāmamattaṃ
yaṭṭhimattaṃ gāvutamattaṃ aḍḍhayojanamattaṃ yojanamattanti evaṃ
uggantvā uggantvā anekayojanasahassaṃ nabhaṃ āhacca ṭhitā ahosi.
Pādehi ussakkitvāti agganakhato paṭṭhāya
pādehi abhiruhitvā. Nānāvaṇṇāti eko
nīlavaṇṇo, eko pītavaṇṇo, eko lohitavaṇṇo, eko paṇḍupalāsavaṇṇoti
evaṃ nānāvaṇṇā. Setāti paṇḍarā parisuddhā.
Mahato mīḷhapabbatassāti tiyojanubbedhassa
gūthapabbatassa. Uparūparicaṅkamatīti
matthakamatthake caṅkamati . Dīghāyukabuddhā
pana tiyojanike mīḷhapabbate anupavisitvā nisinnā viya honti.
Evaṃ ettakena
ṭhānena pubbanimittāni dassetvā idāni saha pubbanimittehi paṭilābhaṃ
dassetuṃ yampi, bhikkhavetiādimāha. Tattha
sabbaguṇadāyakattā buddhānaṃ arahattamaggo
anuttarā sammāsambodhi nāma. Tasmā yaṃ so
cakkavāḷamahāpathaviṃ sirisayanabhūtaṃ addasa, taṃ buddhabhāvassa
pubbanimittaṃ. Yaṃ himavantapabbatarājānaṃ bimbohanaṃ addasa, taṃ
sabbaññutaññāṇabimbohanassa pubbanimittaṃ. Yaṃ cattāro hatthapāde
cakkavāḷamatthake ṭhite addasa, taṃ dhammacakkassa
appaṭivattiyabhāve pubbanimittaṃ. Yaṃ attānaṃ uttānakaṃ nipannaṃ
addasa, taṃ tīsu bhavesu avakujjānaṃ sattānaṃ uttānamukhabhāvassa
pubbanimittaṃ. Yaṃ akkhīni ummīletvā passanto
viya ahosi, taṃ dibbacakkhupaṭilābhassa pubbanimittaṃ. Yaṃ yāva
bhavaggā ekālokaṃ ahosi, taṃ anāvaraṇañāṇassa pubbanimittaṃ. Sesaṃ
pāḷivaseneva veditabbanti.
|
1. - Trước khi Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, này các Tỷ-kheo, khi chưa
chánh đẳng giác, c̣n là Bồ-tát, có năm mộng lớn hiện ra. Thế nào là
năm?
|
Tathāgatassa,
bhikkhave, arahato sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā
anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato ayaṃ
mahāpathavī mahāsayanaṃ ahosi, himavā pabbatarājā bibbohanaṃ
[bibbohanaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.), bimba + ohanaṃ =
iti padavibhāgo] ahosi, puratthime samudde vāmo hattho ohito
ahosi, pacchime samudde dakkhiṇo hattho ohito
ahosi, dakkhiṇe samudde ubho pādā ohitā ahesuṃ.
|
2. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, c̣n là Bồ-tát mộng thấy đất lớn này là giường lớn, Tuyết
sơn, vua các loài núi là các gối, tay trái đặt nằm trên biển phía
Đông, tay mặt nằm trên biển phía Tây, hai chân nằm trên biển phía
Nam.
|
Tathāgatassa, bhikkhave, arahato
sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā anabhisambuddhassa
bodhisattasseva sato ayaṃ paṭhamo mahāsupino pāturahosi.
|
Trước khi Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, c̣n là
Bồ-tát, mộng lớn thứ nhất này được hiện ra.
|
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā
anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato tiriyā nāma tiṇajāti nābhiyā
uggantvā nabhaṃ āhacca ṭhitā ahosi.
|
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa
chánh đẳng giác, c̣n là Bồ-tát mộng thấy từ nơi lỗ rún, cỏ tiriya
mọc ra, mọc cho đến khi chạm đến trời rồi mới dừng lại.
|
Tathāgatassa,
bhikkhave , arahato sammāsambuddhassa pubbeva
sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato ayaṃ dutiyo
mahāsupino pāturahosi.
|
Trước khi Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, c̣n là
Bồ-tát, mộng lớn thứ hai này được hiện ra.
|
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā
anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato setā kimī kaṇhasīsā pādehi
ussakkitvā ( ) [(agganakhato) katthaci dissati]
yāva jāṇumaṇḍalā paṭicchādesuṃ.
|
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa
chánh đẳng giác, c̣n là Bồ-tát mộng thấy các con sâu trắng, đầu đen,
ḅ ra từ chân cho đến đầu gối và che đậy chúng.
|
Tathāgatassa,
bhikkhave, arahato sammāsambuddhassa pubbeva
sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato ayaṃ tatiyo
mahāsupino pāturahosi.
|
Trước khi Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, c̣n là
Bồ-tát, mộng lớn thứ ba này được hiện ra.
|
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā
anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato cattāro sakuṇā nānāvaṇṇā
catūhi disāhi āgantvā pādamūle nipatitvā sabbasetā sampajjiṃsu.
|
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa
chánh đẳng giác, c̣n là Bồ-tát mộng thấy bốn con chim màu sắc khác
nhau, từ bốn phương bay đến, rơi xuống chân Ngài và trở thành trắng
toát.
|
Tathāgatassa,
bhikkhave, arahato sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā
anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato ayaṃ catuttho mahāsupino
pāturahosi.
|
Trước khi Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, c̣n là
Bồ-tát, mộng lớn thứ tư này được hiện ra.
|
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, tathāgato arahaṃ sammāsambuddho pubbeva sambodhā
anabhisambuddho bodhisattova samāno mahato mīḷhapabbatassa uparūpari
caṅkamati alippamāno mīḷhena.
|
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa
chánh đẳng giác, c̣n là Bồ-tát mộng thấy Ngài đi kinh hành qua lại
trên ḥn núi đầy phân, nhưng không bị nhớp v́ phân.
|
Tathāgatassa,
bhikkhave, arahato sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā
anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato ayaṃ pañcamo mahāsupino
pāturahosi.
|
Trước khi Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, c̣n là
Bồ-tát, mộng lớn thứ năm này được hiện ra.
|
‘‘Yampi
, bhikkhave, tathāgatassa arahato
sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā anabhisambuddhassa
bodhisattasseva sato ayaṃ mahāpathavī mahāsayanaṃ ahosi, himavā
pabbatarājā bibbohanaṃ ahosi, puratthime samudde vāmo hattho ohito
ahosi, pacchime samudde dakkhiṇo hattho ohito ahosi, dakkhiṇe
samudde ubho pādā ohitā ahesuṃ; tathāgatena ,
bhikkhave, arahatā sammāsambuddhena anuttarā sammāsambodhi
abhisambuddhā.
|
7. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, c̣n là Bồ-tát mộng thấy quả đất lớn này làm giường nằm
lớn, núi Tuyết sơn, vua các loài núi làm các gối, tay trái đặt nằm
trên biển phía Đông, tay mặt nằm trên biển phía Tây, hai chân đặt
nằm trên biển phía Nam. Này các Tỷ-kheo, đối với Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác Ngài chứng được Vô thượng Chánh giác ngộ,
Chánh Đẳng Giác.
|
Tassā
abhisambodhāya ayaṃ paṭhamo mahāsupino pāturahosi.
|
Trong khi Ngài Chánh Đẳng giác
ngộ, mộng lớn thứ nhất này được hiện ra.
|
‘‘Yampi
, bhikkhave, tathāgatassa arahato
sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā anabhisambuddhassa
bodhisattasseva sato tiriyā nāma tiṇajāti
nābhiyā uggantvā nabhaṃ āhacca ṭhitā ahosi; tathāgatena, bhikkhave,
arahatā sammāsambuddhena ariyo aṭṭhaṅgiko maggo abhisambujjhitvā
yāva devamanussehi suppakāsito.
|
8. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, c̣n là Bồ-tát mộng thấy từ nơi lỗ rún, cỏ tiriya mọc ra,
mọc cho đến khi chạm đến trời rồi mới dừng lại. Này các Tỷ-kheo, đối
với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Thánh đạo tám ngành được
hoàn toàn giác ngộ và khéo tuyên bố cho chư Thiên và loài Người.
|
Tassa
abhisambodhāya ayaṃ dutiyo mahāsupino pāturahosi.
|
Trong khi Ngài chánh giác ngộ,
mộng lớn thứ hai này được hiện ra.
|
‘‘Yampi,
bhikkhave, tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā
anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato setā kimī kaṇhasīsā pādehi
ussakkitvā yāva jāṇumaṇḍalā paṭicchādesuṃ; bahū, bhikkhave, gihī
odātavasanā tathāgataṃ pāṇupetā [pāṇupetaṃ (sī.
syā. kaṃ. pī.)] saraṇaṃ gatā.
|
9. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, c̣n là Bồ-tát mộng thấy các con sâu trắng, đầu đen, ḅ ra
từ chân cho đến đầu gối và che đậy chúng. Này các Tỷ-kheo, nhiều gia
chủ bận áo trắng quy y Như Lai cho đến trọn đời.
|
Tassa
abhisambodhāya ayaṃ tatiyo mahāsupino pāturahosi.
|
Trong khi Ngài chánh giác ngộ,
mộng lớn thứ ba này được hiện ra.
|
‘‘Yampi,
bhikkhave, tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā
anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato cattāro sakuṇā nānāvaṇṇā
catūhi disāhi āgantvā pādamūle nipatitvā sabbasetā sampajjiṃsu;
cattārome, bhikkhave, vaṇṇā khattiyā brāhmaṇā vessā suddā te
tathāgatappavedite dhammavinaye agārasmā anagāriyaṃ pabbajitvā
anuttaraṃ vimuttiṃ sacchikaronti.
|
10. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, c̣n là Bồ-tát mộng thấy bốn con chim màu sắc khác nhau,
từ bốn phương bay đến, rơi xuống chân Ngài và trở thành trắng toát.
Bốn giai cấp này, này các Tỷ-kheo, Sát-đế-ly, Bà-la-môn, Tỳ-xá,
Thủ-đà, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đ́nh sống không gia đ́nh trong
Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết, các vị ấy chứng ngộ vô thượng
giải thoát.
|
Tassa
abhisambodhāya ayaṃ catuttho mahāsupino pāturahosi.
|
Trong khi Ngài chánh giác ngộ,
mộng lớn thứ tư này được hiện ra.
|
‘‘Yampi,
bhikkhave, tathāgato arahaṃ sammāsambuddho pubbeva sambodhā
anabhisambuddho bodhisattova samāno mahato mīḷhapabbatassa uparūpari
caṅkamati alippamāno mīḷhena; lābhī,
bhikkhave, tathāgato
cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ, taṃ
[tattha ca (sī. syā. kaṃ. pī.)] tathāgato
agathito [agadhito (syā. pī. ka.)]
amucchito anajjhosanno [anajjhāpanno (ka.)
anajjhopanno (sī. syā.)] ādīnavadassāvī nissaraṇapañño
paribhuñjati.
|
11. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, c̣n là Bồ-tát mộng thấy Ngài đi kinh hành qua lại trên
ḥn núi đầy phân, nhưng không bị nhớp v́ phân. Này các Tỷ-kheo, Thế
Tôn được các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Và ở đây, Như Lai thọ hưởng không bị trói buộc
không bị tham đắm, không bị mê say, thấy sự nguy hại có trí tuệ và
xuất ly.
|
Tassa
abhisambodhāya ayaṃ pañcamo mahāsupino
pāturahosi.
|
Trong khi Ngài chánh giác ngộ,
mộng lớn thứ năm này được hiện ra.
|
‘‘Tathāgatassa,
bhikkhave, arahato sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā
anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato ime pañca mahāsupinā
pāturahesu’’nti. Chaṭṭhaṃ.
|
Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, trước khi thành
Chánh Đẳng Giác, c̣n là Bồ-tát năm mộng lớn này được hiện ra.
|
7. Vassasuttaṃ
|
7.
Vassasuttavaṇṇanā
|
(VII) (197) Mưa
|
197.
‘‘Pañcime , bhikkhave,
vassassa antarāyā, yaṃ nemittā [nemittakā
(katthaci)] na jānanti, yattha nemittānaṃ cakkhu na kamati.
Katame pañca?
|
197.
Sattame nemittāti nimittapāṭhakā.
Tejodhātu pakuppatīti mahāaggikkhandho
uppajjati. Pāṇinā udakaṃ sampaṭicchitvāti
uppannaṃ utusamuṭṭhānaṃ udakaṃ tiyojanasatena hatthena paṭiggahetvā.
Pamattā hontīti attano kīḷāya pamattā honti
vippavuṭṭhasatino. Tesañhi sakāya ratiyā ‘‘ramāmā’’ti citte uppanne
akālepi devo vassati, tadabhāve na vassati.
Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ – ‘‘na kālavassa’’nti. Aṭṭhamanavamāni
uttānatthāneva.
|
1. - Có năm chướng ngại cho mưa
này, các người đoán tướng không biết được, ở đây, mắt của những
người đoán tướng không thể kham nhẫn. Thế nào là năm?
|
Upari, bhikkhave,
ākāse tejodhātu pakuppati. Tena uppannā meghā paṭivigacchanti. Ayaṃ,
bhikkhave, paṭhamo vassassa antarāyo, yaṃ nemittā na jānanti, yattha
nemittānaṃ cakkhu na kamati.
|
2. Trên hư không, này các Tỷ-kheo,
hỏa giới phẫn nộ, do vậy các mây đă khởi lên bị tán loạn. Này các
Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ nhất cho mưa, các người đoán tướng
không biết được, ở đây mắt của những người đoán tướng không thể kham
nhẫn.
|
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, upari ākāse vāyodhātu pakuppati. Tena uppannā meghā
paṭivigacchanti. Ayaṃ, bhikkhave, dutiyo vassassa antarāyo, yaṃ
nemittā na jānanti, yattha nemittānaṃ cakkhu na kamati.
|
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trên
hư không, phong giới phẫn nộ, do vậy các mây đă khởi lên bị tán
loạn. Này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ hai cho mưa, các người
đoán tướng không biết được, mắt của những người đoán tướng không thể
kham nhẫn.
|
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, rāhu asurindo pāṇinā udakaṃ sampaṭicchitvā mahāsamudde
chaḍḍeti. Ayaṃ, bhikkhave, tatiyo vassassa antarāyo, yaṃ nemittā na
jānanti, yattha nemittānaṃ cakkhu na kamati.
|
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Ràhu,
vua các loài A-tu-la dùng tay thâu lấy nước rồi đổ xuống biển lớn.
Này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ ba cho mưa, các người đoán
tướng không biết được, mắt của những người đoán tướng không thể kham
nhẫn.
|
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, vassavalāhakā devā pamattā honti. Ayaṃ, bhikkhave,
catuttho vassassa antarāyo, yaṃ nemittā na jānanti, yattha
nemittānaṃ cakkhu na kamati.
|
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, chư
Thiên của các loại mây đem mưa trở thành biếng nhác. Đây là chướng
ngại thứ tư cho mưa, các người đoán tướng không biết được, mắt của
những người đoán tướng không thể kham nhẫn.
|
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, manussā adhammikā honti. Ayaṃ, bhikkhave, pañcamo
vassassa antarāyo, yaṃ nemittā na jānanti, yattha nemittānaṃ cakkhu
na kamati.
|
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi
loài Người trở thành phi pháp, này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại
thứ năm cho mưa, các người đoán tướng không biết được, mắt của những
người đoán tướng không thể kham nhẫn.
|
Ime kho, bhikkhave, pañca vassassa
antarāyā, yaṃ nemittā na jānanti, yattha nemittānaṃ cakkhu na
kamatī’’ti. Sattamaṃ.
|
Này các Tỷ-kheo, có năm chướng
ngại cho mưa này, các người đoán tướng không biết được, ở đây mắt
của những người đoán tướng không thể kham nhẫn.
|
8. Vācāsuttaṃ
|
|
(VIII) (198) Lời Nói
|
198.
‘‘Pañcahi , bhikkhave,
aṅgehi samannāgatā vācā subhāsitā hoti, no dubbhāsitā, anavajjā ca
ananuvajjā ca viññūnaṃ [ananuvajjā viññūnaṃ (syā.
kaṃ.)]. Katamehi pañcahi?
|
|
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có
phạm tội và không bị những người có trí chỉ trích. Thế nào là năm?
|
Kālena
ca bhāsitā hoti, saccā ca bhāsitā hoti, saṇhā
ca bhāsitā hoti, atthasaṃhitā ca bhāsitā hoti, mettacittena ca
bhāsitā hoti.
|
|
2. Nói đúng thời, nói đúng sự
thật, nói lời nhu ḥa, nói lời liên hệ đến lợi ích, nói với lời từ
tâm.
|
Imehi kho,
bhikkhave, pañcahi aṅgehi samannāgatā vācā
subhāsitā hoti, no dubbhāsitā, anavajjā ca ananuvajjā ca
viññūna’’nti. Aṭṭhamaṃ.
|
|
Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có
phạm tội và không bị những người có trí chỉ trích.
|
9. Kulasuttaṃ
|
|
(IX) (199) Gia Đ́nh
|
199.
‘‘Yaṃ, bhikkhave, sīlavanto pabbajitā kulaṃ upasaṅkamanti, tattha
manussā pañcahi ṭhānehi bahuṃ puññaṃ pasavanti. Katamehi pañcahi?
|
|
1. - Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đ́nh, tại đấy các người do
năm trường hợp, được nhiều công đức. Thế nào là năm?
|
Yasmiṃ, bhikkhave,
samaye sīlavante pabbajite kulaṃ upasaṅkamante manussā disvā cittāni
pasādenti [pasīdanti (syā. kaṃ. ka.)],
saggasaṃvattanikaṃ, bhikkhave, taṃ kulaṃ tasmiṃ samaye paṭipadaṃ
paṭipannaṃ hoti.
|
|
2. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đ́nh, các người sau khi thấy
họ tâm được tịnh tín. Này các Tỷ-kheo, như vậy là đưa đến cơi Trời,
và gia đ́nh ấy trong lúc ấy đă bước được trên con đường ấy.
|
‘‘Yasmiṃ,
bhikkhave, samaye sīlavante pabbajite kulaṃ upasaṅkamante manussā
paccuṭṭhenti abhivādenti āsanaṃ denti, uccākulīnasaṃvattanikaṃ,
bhikkhave, taṃ kulaṃ tasmiṃ samaye paṭipadaṃ paṭipannaṃ hoti.
|
|
3. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đ́nh, các người đứng dậy,
đảnh lễ họ, mời họ ngồi. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến được sanh
vào các gia đ́nh cao sang, và gia đ́nh ấy trong lúc ấy đă bước được
trên con đường ấy.
|
‘‘Yasmiṃ,
bhikkhave, samaye sīlavante pabbajite kulaṃ upasaṅkamante manussā
maccheramalaṃ paṭivinenti [paṭivinodenti (sī.
pī.)], mahesakkhasaṃvattanikaṃ, bhikkhave, taṃ kulaṃ tasmiṃ
samaye paṭipadaṃ paṭipannaṃ hoti.
|
|
4. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đ́nh, các người từ bỏ cấu uế
của xan tham. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến đại uy lực, và gia
đ́nh ấy trong lúc ấy, đă bước được trên con đường ấy.
|
‘‘Yasmiṃ,
bhikkhave, samaye sīlavante pabbajite kulaṃ upasaṅkamante manussā
yathāsatti yathābalaṃ saṃvibhajanti, mahābhogasaṃvattanikaṃ
, bhikkhave, taṃ kulaṃ tasmiṃ samaye paṭipadaṃ
paṭipannaṃ hoti.
|
|
5. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đ́nh, các người tùy theo khả
năng, tùy theo năng lực, san sẻ vật bố thí. Này các Tỷ-kheo, như vậy
đưa đến tài sản lớn, và gia đ́nh ấy trong lúc ấy đă bước được trên
con đường ấy.
|
‘‘Yasmiṃ,
bhikkhave, samaye sīlavante pabbajite kulaṃ upasaṅkamante manussā
paripucchanti paripañhanti dhammaṃ suṇanti, mahāpaññāsaṃvattanikaṃ,
bhikkhave, taṃ kulaṃ tasmiṃ samaye paṭipadaṃ paṭipannaṃ hoti.
|
|
6. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đ́nh, các người hỏi những câu
hỏi, đặt những câu hỏi, nghe pháp. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến
đại trí tuệ, và gia đ́nh ấy trong lúc ấy đă bước được trên con đường
ấy.
|
Yaṃ
, bhikkhave, sīlavanto pabbajitā kulaṃ
upasaṅkamanti, tattha manussā imehi pañcahi ṭhānehi bahuṃ puññaṃ
pasavantī’’ti. Navamaṃ.
|
|
Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đ́nh, tại đấy các người do
năm trường hợp này được nhiều công đức.
|
10.
Nissāraṇīyasuttaṃ
|
10.
Nissāraṇīyasuttavaṇṇanā
|
(X) (200) Xuất Ly
|
200.
‘‘Pañcimā , bhikkhave, nissāraṇīyā
[nissaraṇīyā (pī.), nissaraṇiyā (dī. ni. 3.321)]
dhātuyo. Katamā pañca?
|
200.
Dasame nissāraṇīyāti nissaṭā visaññuttā.
Dhātuyoti attasuññasabhāvā.
Kāmaṃ manasikarototi kāmaṃ
manasikarontassa, asubhajjhānato vuṭṭhāya agadaṃ gahetvā visaṃ
vīmaṃsanto viya vīmaṃsanatthaṃ kāmābhimukhaṃ cittaṃ pesentassāti
attho. Na pakkhandatīti nappavisati.
Nappasīdatīti pasādaṃ nāpajjati.
Na santiṭṭhatīti nappatiṭṭhahati.
Na vimuccatīti na adhimuccati. Yathā pana
kukkuṭapattaṃ vā nhārudaddulaṃ vā aggimhi pakkhittaṃ paṭilīyati
patikuṭati pativaṭṭati na saṃpasārīyati, evaṃ paṭilīyati
na saṃpasārīyati. Nekkhammaṃ
kho panāti idha nekkhammaṃ nāma asubhesu paṭhamajjhānaṃ,
tadassa manasikaroto cittaṃ pakkhandati. Tassa taṃ
cittanti tassa taṃ asubhajjhānacittaṃ.
Sugatanti gocare gatattā suṭṭhu gataṃ.
Subhāvitanti ahānabhāgiyattā suṭṭhu bhāvitaṃ.
Suvuṭṭhitanti kāmato vuṭṭhitaṃ.
Suvimuttanti kāmehi suṭṭhu vimuttaṃ.
Kāmapaccayā āsavā nāma kāmahetukā cattāro
āsavā. Vighātāti dukkhā.
Pariḷāhāti kāmarāgapariḷāhā.
Na so taṃ vedanaṃ vediyatīti so taṃ
kāmavedanaṃ vighātapariḷāhavedanañca na vediyati.
Idamakkhātaṃ kāmānaṃ nissaraṇanti idaṃ asubhajjhānaṃ kāmehi
nissaṭattā kāmānaṃ nissaraṇanti akkhātaṃ. Yo pana taṃ jhānaṃ pādakaṃ
katvā saṅkhāre sammasanto tatiyamaggaṃ patvā anāgāmiphalena nibbānaṃ
disvā ‘‘puna kāmā nāma natthī’’ti jānāti. Tassa cittaṃ
accantanissaraṇameva. Sesapadesupi eseva nayo.
Ayaṃ
pana viseso – dutiyavāre mettājhānāni
byāpādassa nissaraṇaṃ nāma. Tatiyavāre karuṇājhānāni vihiṃsāya
nissaraṇaṃ nāma. Catutthavāre arūpajjhānāni rūpānaṃ nissaraṇaṃ nāma.
Accantanissaraṇañcettha arahattaphalaṃ yojetabbaṃ. Pañcamavāre
sakkāyaṃ manasikarototi suddhasaṅkhāre
pariggaṇhitvā arahattaṃ pattassa sukkhavipassakassa phalasamāpattito
vuṭṭhāya vīmaṃsanatthaṃ pañcupādānakkhandhābhimukhaṃ cittaṃ
pesentassa. Idamakkhātaṃ sakkāyassa nissaraṇanti
idaṃ arahattamaggena ca phalena ca nibbānaṃ disvā ṭhitassa bhikkhuno
‘‘puna sakkāyo natthī’’ti uppannaṃ arahattaphalasamāpatticittaṃ
sakkāyassa nissaraṇanti akkhātaṃ. Idāni evaṃ sakkāyanissaraṇaṃ
nirodhaṃ patvā ṭhitassa khīṇāsavassa vaṇṇaṃ kathento
tassa kāmanandīpi nānusetītiādimāha. Tattha
nānusetīti na nibbattati.
Ananusayāti anibbattiyā. Sesamettha uttānatthamevāti.
Brāhmaṇavaggo
pañcamo.
Catutthapaṇṇāsakaṃ
niṭṭhitaṃ.
5.
Pañcamapaṇṇāsakaṃ
|
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm giới
đưa đến xuất ly này. Thế nào là năm?
|
Idha, bhikkhave, bhikkhuno
kāmaṃ [kāme (syā. kaṃ.) dī.
ni. 3.321] manasikaroto kāmesu cittaṃ na pakkhandati
nappasīdati na santiṭṭhati na vimuccati. Nekkhammaṃ kho panassa
manasikaroto nekkhamme cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati
vimuccati. Tassa taṃ cittaṃ sugataṃ [sukataṃ (pī.
ka.)] subhāvitaṃ suvuṭṭhitaṃ suvimuttaṃ suvisaṃyuttaṃ
[visaṃyuttaṃ (katthaci, dī. ni. 3.321)]
kāmehi; ye ca kāmapaccayā uppajjanti āsavā vighātapariḷāhā, mutto so
tehi, na so taṃ vedanaṃ vediyati. Idamakkhātaṃ kāmānaṃ nissaraṇaṃ.
|
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ư về dục tâm không phấn chấn trong các dục, không tịnh tín,
không an trú, không quyết định. Nhưng khi tác ư đến viễn ly, tâm
liền phấn chấn trong viễn ly, được tịnh tín, được an trú, được quyết
định. Tâm ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tu tập, khéo tăng trưởng,
khéo giải thoát, khéo không liên hệ đến dục. Và do duyên với dục,
khởi lên các lậu hoặc năo hại, nhiệt năo, vị ấy giải thoát khỏi
chúng, không cảm giác thọ ấy. Đây gọi là xuất ly khỏi cái dục.
|
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, bhikkhuno byāpādaṃ manasikaroto byāpāde cittaṃ na
pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati na vimuccati. Abyāpādaṃ kho
panassa manasikaroto abyāpāde cittaṃ pakkhandati pasīdati
santiṭṭhati vimuccati. Tassa taṃ cittaṃ sugataṃ subhāvitaṃ
suvuṭṭhitaṃ suvimuttaṃ suvisaṃyuttaṃ byāpādena; ye ca byāpādapaccayā
uppajjanti āsavā vighātapariḷāhā, mutto so tehi, na so taṃ vedanaṃ
vediyati. Idamakkhātaṃ byāpādassa nissaraṇaṃ.
|
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo tác ư về sân, tâm không phấn chấn trong sân, không tịnh tín,
không an trú, không quyết định. Nhưng khi tác ư đến vô sân, tâm liền
phấn chấn trong vô sân, được tịnh tín, được an trú, được quyết định.
Tâm ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tu tập, khéo tăng trưởng, khéo
giải thoát, khéo không liên hệ đến sân. Và do duyên với sân, khởi
lên các lậu hoặc năo hại, nhiệt năo, vị ấy giải thoát khỏi chúng,
không cảm giác thọ ấy. Đây gọi là xuất ly khỏi sân.
|
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, bhikkhuno vihesaṃ manasikaroto
vihesāya cittaṃ na pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati na
vimuccati. Avihesaṃ kho panassa manasikaroto avihesāya cittaṃ
pakkhandati pasīdati santiṭṭhati vimuccati. Tassa taṃ cittaṃ sugataṃ
subhāvitaṃ suvuṭṭhitaṃ suvimuttaṃ suvisaṃyuttaṃ vihesāya; ye ca
vihesāpaccayā uppajjanti āsavā vighātapariḷāhā, mutto so tehi, na so
taṃ vedanaṃ vediyati. Idamakkhātaṃ vihesāya nissaraṇaṃ.
|
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo tác ư về hại, tâm không phấn chấn trong hại, không tịnh tín,
không an trú, không quyết định. Nhưng khi tác ư đến vô hại, tâm liền
phấn chấn trong vô hại, được tịnh tín, được an trú, được quyết định.
Tâm ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tu tập, khéo tăng trưởng, khéo
giải thoát, khéo không liên hệ đến hại. Và do duyên với hại, khởi
lên các lậu hoặc năo hại, nhiệt năo, vị ấy giải thoát khỏi chúng,
không cảm giác thọ ấy. Đây gọi là xuất ly ra khỏi hại.
|
‘‘Puna
caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno rūpaṃ
manasikaroto rūpe cittaṃ na pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati
na vimuccati. Arūpaṃ kho panassa manasikaroto arūpe cittaṃ
pakkhandati pasīdati santiṭṭhati vimuccati. Tassa taṃ cittaṃ sugataṃ
subhāvitaṃ suvuṭṭhitaṃ suvimuttaṃ suvisaṃyuttaṃ rūpehi; ye ca
rūpapaccayā uppajjanti āsavā vighātapariḷāhā, mutto so tehi, na so
taṃ vedanaṃ vediyati. Idamakkhātaṃ rūpānaṃ nissaraṇaṃ.
|
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo tác ư về sắc, tâm không phấn chấn trong sắc, không tịnh tín,
không an trú, không quyết định. Nhưng khi tác ư đến vô sắc, tâm liền
phấn chấn trong vô sắc, được tịnh tín, được an trú, được quyết định.
Tâm ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tu tập, khéo tăng trưởng, khéo
giải thoát, khéo không liên hệ đến sắc. Và do duyên với sắc, khởi
lên các lậu hoặc năo hại, nhiệt năo, vị ấy giải thoát khỏi chúng,
không cảm giác thọ ấy. Đây gọi là xuất ly ra khỏi sắc.
|
‘‘Puna
caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno sakkāyaṃ
manasikaroto sakkāye cittaṃ na pakkhandati nappasīdati na
santiṭṭhati na vimuccati. Sakkāyanirodhaṃ kho panassa manasikaroto
sakkāyanirodhe cittaṃ pakkhandati pasīdati
santiṭṭhati vimuccati. Tassa taṃ cittaṃ sugataṃ subhāvitaṃ
suvuṭṭhitaṃ suvimuttaṃ suvisaṃyuttaṃ sakkāyena; ye ca sakkāyapaccayā
uppajjanti āsavā vighātapariḷāhā, mutto so tehi, na so taṃ vedanaṃ
vediyati. Idamakkhātaṃ sakkāyassa nissaraṇaṃ.
|
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo tác ư về có thân, tâm không phấn chấn trong có thân, không
tịnh tín, không an trú, không quyết định. Nhưng khi tác ư đến đoạn
diệt có thân, tâm liền phấn chấn trong đoạn diệt có thân, được tịnh
tín, được an trú, được quyết định. Tâm ấy của vị ấy là khéo làm,
khéo tu tập, khéo tăng trưởng, khéo giải thoát, khéo không liên hệ
đến có thân. Và do duyên với có thân, khởi lên các lậu hoặc năo hại,
nhiệt năo, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm giác thọ ấy. Đây
gọi là xuất ly khỏi có thân.
|
‘‘Tassa
kāmanandīpi nānuseti, byāpādanandīpi nānuseti, vihesānandīpi
nānuseti , rūpanandīpi nānuseti,
sakkāyanandīpi nānuseti (so) [( ) katthaci
natthi] kāmanandiyāpi ananusayā, byāpādanandiyāpi ananusayā,
vihesānandiyāpi ananusayā, rūpanandiyāpi ananusayā, sakkāyanandiyāpi
ananusayā. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu niranusayo, acchecchi
[acchejji (syā. kaṃ. ka.)] taṇhaṃ,
vivattayi [vāvattayi (sī.)] saṃyojanaṃ,
sammā mānābhisamayā antamakāsi dukkhassa.
|
Đối với vị ấy, dục hỷ không có tùy
miên, sân hỷ không có tùy miên, hại hỷ không có tùy miên, sắc hỷ
không có tùy miên, hữu thân hỷ không có tùy miên. Vị ấy không có tùy
miên đối với dục hỷ, không có tùy miên đối với sân hỷ, không có tùy
miên đối với hại hỷ, không có tùy miên đối với sắc hỷ, không có tùy
miên đối với hữu thân hỷ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo được
giải thoát khỏi tùy miên, đă chặt đứt khát ái, giải tỏa kiết sử, do
chánh pháp nhiếp phục kiêu mạn, đoạn tận khổ đau.
|
Imā kho,
bhikkhave, pañca nissāraṇīyā dhātuyo’’ti. Dasamaṃ.
Brāhmaṇavaggo
pañcamo.
Tassuddānaṃ –
Soṇo
doṇo saṅgāravo, kāraṇapālī ca piṅgiyānī;
Supinā ca vassā
vācā, kulaṃ nissāraṇīyena cāti.
Catutthaṃpaṇṇāsakaṃ samatto.
5.
Pañcamapaṇṇāsakaṃ
|
Này các Tỷ-kheo, có năm giới đưa
đến xuất ly này.
|
Phân đoạn song ngữ:
Nga Tuyet
Updated 17-6-2019
Mục Lục Kinh Tăng Chi Bộ
Pali Việt
Aṅguttaranikāya
Aṅguttaranikāya (aṭṭhakathā)
Kinh Tăng Chi Bộ
|