CHÁNH KINH PALI
|
CHÚ GIẢI PALI
|
BẢN DỊCH VIỆT
|
Aṅguttaranikāyo
|
Aṅguttaranikāye
|
Tăng Chi Bộ
|
Chakkanipātapāḷi
|
Chakkanipāta-aṭṭhakathā
|
Chương
VI –
Sáu Pháp
|
3. Anuttariyavaggo
|
3. Anuttariyavaggo
|
III. Phẩm Trên Tất Cả
|
1. Sāmakasuttaṃ
21. Ekaṃ samayaṃ
bhagavā sakkesu viharati sāmagāmake pokkharaṇiyāyaṃ. Atha kho aññatarā
devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ pokkharaṇiyaṃ
obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami ;
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā
kho sā devatā bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘Tayome, bhante, dhammā bhikkhuno parihānāya saṃvattanti. Katame tayo?
Kammārāmatā, bhassārāmatā , niddārāmatā – ime kho,
bhante, tayo dhammā bhikkhuno parihānāya saṃvattantī’’ti. Idamavoca sā
devatā. Samanuñño satthā ahosi. Atha kho sā devatā ‘‘samanuñño me
satthā’’ti bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi – ‘‘imaṃ,
bhikkhave, rattiṃ aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā
kevalakappaṃ pokkharaṇiyaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho,
bhikkhave, sā devatā maṃ etadavoca – ‘tayome, bhante, dhammā bhikkhuno
parihānāya saṃvattanti. Katame tayo? Kammārāmatā, bhassārāmatā,
niddārāmatā – ime kho, bhante, tayo dhammā bhikkhuno parihānāya
saṃvattantī’ti. Idamavoca, bhikkhave, sā devatā. Idaṃ vatvā maṃ
abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi. Tesaṃ vo [kho (ka.)], bhikkhave, alābhā
tesaṃ dulladdhaṃ, ye vo devatāpi jānanti kusalehi dhammehi
parihāyamāne’’.
‘‘Aparepi, bhikkhave, tayo parihāniye dhamme desessāmi. Taṃ suṇātha,
sādhukaṃ manasi karotha; bhāsissāmī’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho te
bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –
‘‘katame ca, bhikkhave, tayo parihāniyā dhammā?
Saṅgaṇikārāmatā, dovacassatā, pāpamittatā – ime kho, bhikkhave, tayo
parihāniyā dhammā’’.
‘‘Ye hi keci, bhikkhave, atītamaddhānaṃ parihāyiṃsu kusalehi
dhammehi, sabbete imeheva chahi dhammehi
parihāyiṃsu kusalehi dhammehi. Yepi hi keci, bhikkhave, anāgatamaddhānaṃ
parihāyissanti kusalehi dhammehi, sabbete imeheva chahi dhammehi
parihāyissanti kusalehi dhammehi. Yepi hi keci,
bhikkhave, etarahi parihāyanti kusalehi dhammehi, sabbete imeheva chahi
dhammehi parihāyanti kusalehi dhammehī’’ti. Paṭhamaṃ.
|
1-2. Sāmakasuttādivaṇṇanā
21-22. Tatiyassa paṭhame sāmagāmaketi sāmakānaṃ ussannattā evaṃladdhanāme gāmake. Pokkharaṇiyāyanti
pokkharaṇiyānāmake vihāre. Abhikkantāya rattiyāti rattiyā paṭhamayāmaṃ atikkamma
majjhimayāme sampatte. Abhikkantavaṇṇāti
abhikkantaatimanāpavaṇṇā. Kevalakappanti sakalakappaṃ. Pokkharaṇiyaṃ
obhāsetvāti pokkharaṇiyānāmakaṃ mahāvihāraṃ attano
obhāsena pharitvā. Samanuññoti
samānaanuñño samānacitto. Dovacassatāti dubbacabhāvo. Pāpamittatāti
lāmakamittatā . Imasmiṃ sutte parihāniyadhammāva
kathitā. Dutiye aparihāniyadhammā lokuttaramissakā kathitā.
|
(I) (21) Tại Sàmagàma
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Sàmagàma, gần hồ
sen. Rồi một Thiên nhân, sau khi đêm đă gần măn, với dung sắc thù thắng
chói sáng toàn vùng hồ sen, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi đứng một bên. Đứng một bên, vị Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn:
- Có ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối đọa. Thế nào là ba?
Ưa thích công việc, ưa thích nói chuyện, ưa thích ngủ nghỉ. Ba pháp này,
bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối đọa.
Vị Thiên nhân ấy nói như vậy. Bậc Đạo Sư chấp nhận. Vị Thiên nhân ấy,
với ư nghĩ: "Bậc Đạo Sư đă chấp nhận ta", đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu
hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ.
2. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đă măn, gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, đêm nay, một Thiên nhân, sau khi đêm đă gần măn, với
dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng hồ sen, đi đến Ta; sau khi đến,
vị ấy đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên nhân ấy nói với
Ta: "Bạch Thế Tôn, có ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối
đọa. Thế nào là ba? Ưa thích công việc, ưa thích nói chuyện, ưa thích
ngủ nghỉ. Ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối đọa". Này các
Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói như vậy. Nói như vậy xong, vị ấy đảnh lễ Ta,
thân bên hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ. Này các Tỷ-kheo, thật
không được ǵ cho các Thầy, thật không khéo được ǵ cho các Thầy, v́
rằng các Thiên nhân ấy biết được các pháp dắt dẫn các Thầy thối đọa
trong các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng ba pháp khác đưa đến
thối đọa, hăy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
3. - Này các Tỷ-kheo, thế nào là ba pháp đưa đến thối đọa? Ưa hội chúng,
ác ngôn, ác bạn hữu. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo đưa đến thối đọa.
4. Này các Tỷ-kheo, những ai trong quá khứ đă thối đọa trong các thiện
pháp, tất cả đều v́ sáu pháp này, sẽ bị thối đọa trong các thiện pháp.
Này các Tỷ-kheo, những ai trong tương lai sẽ bị thối đọa trong các thiện
pháp, tất cả đều v́ sáu pháp này, sẽ bị thối đọa trong các thiện pháp.
Này các Tỷ kheo, những ai trong hiện tại bị thối đọa trong các thiện
pháp, tất cả đều v́ sáu pháp này, bị thối đọa trong các thiện pháp.
|
2. Aparihāniyasuttaṃ
22. ‘‘Chayime, bhikkhave, aparihāniye dhamme desessāmi, taṃ
suṇātha…pe… katame ca, bhikkhave, cha aparihāniyā dhammā? Na
kammārāmatā, na bhassārāmatā, na niddārāmatā, na saṅgaṇikārāmatā,
sovacassatā, kalyāṇamittatā – ime kho, bhikkhave, cha aparihāniyā
dhammā.
‘‘Ye hi keci, bhikkhave, atītamaddhānaṃ na parihāyiṃsu kusalehi
dhammehi, sabbete imeheva chahi dhammehi na parihāyiṃsu kusalehi
dhammehi. Yepi hi keci, bhikkhave, anāgatamaddhānaṃ na parihāyissanti
kusalehi dhammehi, sabbete imeheva chahi dhammehi na parihāyissanti
kusalehi dhammehi. Yepi hi keci, bhikkhave, etarahi na parihāyanti
kusalehi dhammehi, sabbete imeheva chahi dhammehi na parihāyanti
kusalehi dhammehī’’ti. Dutiyaṃ.
|
21-22.
Tatiyassa paṭhame sāmagāmaketi sāmakānaṃ ussannattā evaṃladdhanāme gāmake. Pokkharaṇiyāyanti
pokkharaṇiyānāmake vihāre. Abhikkantāya rattiyāti rattiyā paṭhamayāmaṃ atikkamma
majjhimayāme sampatte. Abhikkantavaṇṇāti abhikkantaatimanāpavaṇṇā. Kevalakappanti
sakalakappaṃ. Pokkharaṇiyaṃ
obhāsetvāti pokkharaṇiyānāmakaṃ mahāvihāraṃ attano
obhāsena pharitvā. Samanuññoti
samānaanuñño samānacitto. Dovacassatāti dubbacabhāvo. Pāpamittatāti
lāmakamittatā . Imasmiṃ sutte parihāniyadhammāva kathitā. Dutiye
aparihāniyadhammā lokuttaramissakā kathitā.
|
(II) (22) Không Thối Đọa
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp không thối đọa này, Ta sẽ thuyết, hăy
lắng nghe.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu pháp không thối đọa?
Không ưa công việc, không ưa nói chuyện, không ưa ngủ nghỉ, không ưa hội
chúng, thiện ngôn, thiện bạn hữu.
Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp không thối đọa này.
3. Này các Tỷ-kheo, những ai trong thời quá khứ không bị thối đọa, trong
các thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này, không bị thối đọa trong các
thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, những ai trong thời vị lai sẽ không bị thối
đọa trong các thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này, sẽ không bị thối
đọa trong các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, những ai trong thời hiện tại
không bị thối đọa trong các thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này,
không bị thối đọa trong các thiện pháp.
|
3. Bhayasuttaṃ
23. ‘‘‘Bhaya’nti, bhikkhave, kāmānametaṃ adhivacanaṃ; ‘dukkha’nti,
bhikkhave, kāmānametaṃ adhivacanaṃ; ‘rogo’ti, bhikkhave, kāmānametaṃ
adhivacanaṃ; ‘gaṇḍo’ti, bhikkhave , kāmānametaṃ
adhivacanaṃ; ‘saṅgo’ti, bhikkhave, kāmānametaṃ adhivacanaṃ; ‘paṅko’ti,
bhikkhave, kāmānametaṃ adhivacanaṃ.
‘‘Kasmā ca, bhikkhave, ‘bhaya’nti kāmānametaṃ adhivacanaṃ?
Kāmarāgarattāyaṃ, bhikkhave, chandarāgavinibaddho diṭṭhadhammikāpi bhayā
na parimuccati, samparāyikāpi bhayā na parimuccati, tasmā ‘bhaya’nti
kāmānametaṃ adhivacanaṃ. Kasmā ca, bhikkhave, dukkhanti…pe… rogoti…
gaṇḍoti… saṅgoti… paṅkoti kāmānametaṃ adhivacanaṃ? Kāmarāgarattāyaṃ,
bhikkhave, chandarāgavinibaddho diṭṭhadhammikāpi paṅkā na parimuccati,
samparāyikāpi paṅkā na parimuccati, tasmā ‘paṅko’ti kāmānametaṃ
adhivacana’’nti.
‘‘Bhayaṃ dukkhaṃ rogo
gaṇḍo, saṅgo paṅko ca ubhayaṃ;
Ete kāmā pavuccanti, yattha satto puthujjano.
‘‘Upādāne bhayaṃ
disvā, jātimaraṇasambhave;
Anupādā vimuccanti, jātimaraṇasaṅkhaye.
‘‘Te khemappattā
sukhino, diṭṭhadhammābhinibbutā;
Sabbaverabhayātītā [sabbe verabhayātītā (syā.)],
sabbadukkhaṃ upaccagu’’nti. tatiyaṃ;
|
3. Bhayasuttavaṇṇanā
23.
Tatiye kāmarāgarattāyanti
kāmarāgaratto ayaṃ. Chandarāgavinibaddhoti chandarāgena vinibaddho. Bhayāti
cittutrāsabhayā. Paṅkāti
kilesapaṅkato. Saṅgo
paṅko ca ubhayanti saṅgo ca paṅko ca idampi ubhayaṃ. Ete
kāmā pavuccanti, yattha satto puthujjanoti yasmiṃ saṅge ca
paṅke ca puthujjano satto laggo laggito palibuddho. Upādāneti catubbidhe upādāne. Jātimaraṇasambhaveti
jātiyā ca maraṇassa ca sambhave paccayabhūte. Anupādāvimuccantīti
anupādiyitvā vimuccanti. Jātimaraṇasaṅkhayeti jātimaraṇānaṃ saṅkhayasaṅkhāte
nibbāne, nibbānārammaṇāya vimuttiyā vimuccantīti attho. Imasmiṃ ṭhāne
vivaṭṭetvā arahattameva patto esa bhikkhu. Idāni taṃ khīṇāsavaṃ
thomento te
khemappattātiādimāha. Tattha khemappattāti
khemabhāvaṃ pattā. Sukhinoti lokuttarasukhena sukhitā. Diṭṭhadhammābhinibbutāti
abbhantare kilesābhāvena diṭṭhadhammeyeva abhinibbutā. Imasmiṃ sutte
vaṭṭameva kathetvā gāthāsu vaṭṭavivaṭaṃ kathitaṃ.
|
(III) (23) Sợ Hăi
1. - Sợ hăi, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Khổ, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghiệp với các dục. Bệnh, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với các dục. Cục bướu, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục.
Tham dính, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Bùn lầy, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục.
2. Và này các Tỷ-kheo, v́ sao sợ hăi là đồng nghĩa với các dục?
Này các Tỷ-kheo, say đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi các tham ước
muốn, ngay trong hiện tại không thoát khỏi sợ hăi, đời sau cũng không
thoát khỏi sợ hăi. Do vậy, sợ hăi là đồng nghĩa với các dục.
3. Này các Tỷ-kheo, v́ sao khổ... bệnh... cục bướu... tham dính... bùn
lầy là đồng nghĩa với các dục?
Này các Tỷ-kheo, say đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi tham dục, ngay
trong hiện tại không thoát khỏi bùn lầy, đời sau cũng không thoát khỏi
bùn lầy. Do vậy bùn lầy là đồng nghĩa với các dục.
Sợ hăi và khổ đau,
Bệnh hoạn và cục bướu,
Cả hai tham dính bùn,
Được gọi là các dục,
Tại đấy kẻ phàm phu,
Tham đắm và chấp trước,
Thấy sợ trong chấp thủ,
Nguồn gốc của tử sanh,
Không chấp thủ, giải thoát,
Đoạn tận được sanh tử,
Chúng đạt được an ổn,
Được hiện tại tịnh lạc,
Vượt sợ hăi oán thù,
Mọi đau khổ vượt qua.
|
4. Himavantasuttaṃ
24. ‘‘Chahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu himavantaṃ
pabbatarājaṃ padāleyya, ko pana vādo chavāya avijjāya! Katamehi chahi?
Idha, bhikkhave, bhikkhu samādhissa samāpattikusalo hoti, samādhissa
ṭhitikusalo hoti, samādhissa vuṭṭhānakusalo hoti, samādhissa
kallitakusalo [kallatākusalo (syā. kaṃ. ka.) saṃ. ni. 3.665 passitabbaṃ]hoti, samādhissa gocarakusalo hoti, samādhissa abhinīhārakusalo
hoti. Imehi kho, bhikkhave, chahi dhammehi
samannāgato bhikkhu himavantaṃ pabbatarājaṃ padāleyya, ko pana vādo
chavāya avijjāyā’’ti! Catutthaṃ.
|
4. Himavantasuttavaṇṇanā
24.
Catutthe padāleyyāti
bhindeyya. Chavāyāti
lāmikāya. Samādhissa
samāpattikusalo hotīti āhārasappāyautusappāyāni
pariggahetvā samādhiṃ samāpajjituṃ kusalo hoti cheko samattho paṭibalo. Samādhissa
ṭhitikusaloti samādhissa ṭhitiyaṃ kusalo, samādhiṃ
ṭhapetuṃ sakkotīti attho. Samādhissa
vuṭṭhānakusaloti samādhissa vuṭṭhāne kusalo,
yathāparicchedena vuṭṭhātuṃ sakkotīti attho. Samādhissa
kallitakusaloti samādhissa kallatāya kusalo, samādhicittaṃ
hāsetuṃ kallaṃ kātuṃ sakkotīti attho. Samādhissa
gocarakusaloti samādhissa asappāye anupakārake dhamme
vajjetvā sappāye upakārake sevantopi, ‘‘ayaṃ samādhinimittārammaṇo ayaṃ
lakkhaṇārammaṇo’’ti jānantopi samādhissa gocarakusalo nāma hoti. Samādhissa
abhinīhārakusaloti upariuparisamāpattisamāpajjanatthāya paṭhamajjhānādisamādhiṃ
abhinīharituṃ sakkonto samādhissa abhinīhārakusalo nāma hoti. So
paṭhamajjhānā vuṭṭhāya dutiyaṃ samāpajjati, dutiyajjhānā…pe…
tatiyajjhānā vuṭṭhāya catutthaṃ samāpajjatīti.
|
(IV) (24) Núi Tuyết Sơn
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể phá vỡ vua núi
Tuyết sơn, c̣n nói ǵ vô minh hạ liệt. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thiện xảo nhập được Thiền định,
thiện xảo trú được Thiền định, thiện xảo xuất khỏi Thiền định, thiện xảo
trong sự an lạc Thiền định, thiện xảo trong cảnh giới Thiền định, thiện
xảo trong sự dẫn khởi đến Thiền định.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể phá vỡ vua núi
Tuyết sơn, c̣n nói ǵ vô minh hạ liệt.
|
5. Anussatiṭṭhānasuttaṃ
25. ‘‘Chayimāni , bhikkhave,
anussatiṭṭhānāni. Katamāni cha? Idha, bhikkhave, ariyasāvako tathāgataṃ
anussarati – ‘itipi so bhagavā…pe… satthā devamanussānaṃ buddho
bhagavā’ti. Yasmiṃ, bhikkhave, samaye ariyasāvako tathāgataṃ anussarati,
nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na
dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti;
ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ
gedhamhā. ‘Gedho’ti kho, bhikkhave, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ.
Idampi kho, bhikkhave, ārammaṇaṃ karitvā evamidhekacce sattā
visujjhanti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, ariyasāvako dhammaṃ anussarati – ‘svākkhāto
bhagavatā dhammo…pe… paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti. Yasmiṃ, bhikkhave,
samaye ariyasāvako dhammaṃ anussarati, nevassa tasmiṃ samaye
rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na
mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti ; ujugatamevassa
tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā.
‘Gedho’ti kho, bhikkhave, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ. Idampi
kho, bhikkhave, ārammaṇaṃ karitvā evamidhekacce sattā visujjhanti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, ariyasāvako saṅghaṃ anussarati –
‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho…pe… anuttaraṃ puññakkhettaṃ
lokassā’ti. Yasmiṃ, bhikkhave, samayeariyasāvako
saṅghaṃ anussarati, nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti,
na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ
hoti; ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ
vuṭṭhitaṃ gedhamhā. ‘Gedho’ti kho, bhikkhave, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ
adhivacanaṃ. Idampi kho, bhikkhave, ārammaṇaṃ karitvā evamidhekacce
sattā visujjhanti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, ariyasāvako attano sīlāni anussarati
akhaṇḍāni…pe… samādhisaṃvattanikāni. Yasmiṃ, bhikkhave, samaye
ariyasāvako sīlaṃ anussarati, nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ
cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ
cittaṃ hoti; ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ
vuṭṭhitaṃ gedhamhā. ‘Gedho’ti kho, bhikkhave, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ
adhivacanaṃ. Idampi kho, bhikkhave, ārammaṇaṃ karitvā evamidhekacce
sattā visujjhanti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, ariyasāvako attano
cāgaṃ anussarati – ‘lābhā vata me! Suladdhaṃ vata me…pe… yācayogo
dānasaṃvibhāgarato’ti. Yasmiṃ…pe… evamidhekacce sattā visujjhanti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, ariyasāvako devatā anussarati – ‘santi devā
cātumahārājikā , santi devā tāvatiṃsā, santi devā
yāmā, santi devā tusitā, santi devā nimmānaratino, santi devā
paranimmitavasavattino, santi devā brahmakāyikā ,
santi devā tatuttari. Yathārūpāya saddhāya samannāgatā tā devatā ito
cutā tattha upapannā; mayhampi tathārūpā saddhā saṃvijjati. Yathārūpena
sīlena… sutena… cāgena… paññāya samannāgatā tā devatā ito cutā tattha
upapannā; mayhampi tathārūpā paññā saṃvijjatī’’’ ti.
‘‘Yasmiṃ , bhikkhave, samaye ariyasāvako attano ca
tāsañca devatānaṃ saddhañca sīlañca sutañca cāgañca paññañca anussarati
nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na
dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti;
ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ
gedhamhā. ‘Gedho’ti kho, bhikkhave, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ.
Idampi kho, bhikkhave, ārammaṇaṃ karitvā evamidhekacce sattā
visujjhanti. Imāni kho, bhikkhave, cha anussatiṭṭhānānī’’ti. Pañcamaṃ.
|
5. Anussatiṭṭhānasuttavaṇṇanā
25.
Pañcame anussatiṭṭhānānīti
anussatikāraṇāni. Itipi so bhagavātiādīni visuddhimagge (visuddhi. 1.123
ādayo) vitthāritāneva. Idampi kho, bhikkhave, ārammaṇaṃ karitvāti idaṃ
buddhānussatikammaṭṭhānaṃ ārammaṇaṃ karitvā. Visujjhantīti
paramavisuddhiṃ nibbānaṃ pāpuṇanti. Sesaṃ sabbattha uttānatthameva.
Imasmiṃ pana sutte cha anussatiṭṭhānāni missakāni kathitānīti
veditabbāni.
|
(V) (25) Tùy Niệm Xứ
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu Tùy niệm xứ này. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai: "Đây là Thế
Tôn, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Khi nào, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ
tử tùy niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không
bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, trong khi ấy, tâm được chánh
trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham, này các Tỷ-kheo, là
đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Do lấy cái này làm đối tượng, này
các Tỷ-kheo, ở đây một số các loài hữu t́nh được thanh tịnh.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Pháp: "Pháp được Thế
Tôn khéo thuyết... được người trí tự ḿnh giác hiểu". Khi nào, này các
Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử tùy niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham
chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, trong khi
ấy, tâm được chánh trực... các loài hữu t́nh được thanh tịnh.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử niệm Tăng: "Diệu hạnh là chúng
đệ tử của Thế Tôn... là ruộng phước vô thượng ở đời". Khi nào, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử niệm Tăng... các loài hữu t́nh được thanh tịnh.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm giới: "Giới không bị
bể vụn... đưa đến Thiền định". Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
tùy niệm giới, trong khi ấy tâm không bị tham chi phối... các loài hữu
t́nh được thanh tịnh.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tự ḿnh tùy niệm thí của ḿnh:
"Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta... trong khi ấy,
tâm không bị tham chi phối... các loài hữu t́nh được thanh tịnh".
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Thiên: "Có bốn Thiên
vương, có chư Thiên cơi Trời Ba mươi ba, có chư Thiên Yàma, có chư Thiên
Tusità (Đâu-suất), có chư Thiên Hóa Lạc Thiên, có chư Thiên Tha hóa Tự
tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với ḷng
tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ
kia. Ḷng tin như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta. Đầy đủ với giới, với nghe
pháp, với thí, với tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này,
được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta". Khi vị ấy
niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ của tự ḿnh và chư Thiên ấy, trong
khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không
bị si chi phối, trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực, ra khỏi, giải
thoát, xuất khỏi tham. Tham, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm dục
trưởng dưỡng. Do lấy cái này làm đối tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây, một
số các loài hữu t́nh được thanh tịnh.
Này các Tỷ-kheo, đây là sáu Tùy niệm xứ.
|
6. Mahākaccānasuttaṃ
26. Tatra kho āyasmā mahākaccāno bhikkhū āmantesi – ‘‘āvuso
bhikkhave’’ti. ‘‘Āvuso’’ti kho te bhikkhū āyasmato mahākaccānassa
paccassosuṃ. Āyasmā mahākaccāno etadavoca – ‘‘acchariyaṃ, āvuso;
abbhutaṃ, āvuso! Yāvañcidaṃ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā
sammāsambuddhena sambādhe okāsādhigamo anubuddho sattānaṃ visuddhiyā
sokaparidevānaṃ samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ
atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ cha
anussatiṭṭhānāni.
‘‘Katamāni cha? Idhāvuso, ariyasāvako tathāgataṃ anussarati – ‘itipi so
bhagavā …pe… satthā devamanussānaṃ buddho
bhagavā’ti. Yasmiṃ, āvuso, samaye ariyasāvako tathāgataṃ anussarati
nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na
dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ
hoti; ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ
vuṭṭhitaṃ gedhamhā. ‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ
adhivacanaṃ. Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā
viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena. Idampi
kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā evamidhekacce sattā visuddhidhammā
bhavanti.
‘‘Puna caparaṃ, āvuso, ariyasāvako dhammaṃ anussarati – ‘svākkhāto
bhagavatā dhammo…pe… paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti. Yasmiṃ, āvuso,
samaye ariyasāvako dhammaṃ anussarati nevassa tasmiṃ samaye
rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na
mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti; ujugatamevassa
tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ. Sa kho so,
āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena
mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena .
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā evamidhekacce sattā visuddhidhammā
bhavanti.
‘‘Puna caparaṃ, āvuso, ariyasāvako saṅghaṃ anussarati – ‘suppaṭipanno
bhagavato sāvakasaṅgho…pe… anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti. Yasmiṃ,
āvuso, samaye ariyasāvako saṅghaṃ anussarati nevassa tasmiṃ samaye
rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na
mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti; ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti,
nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā. ‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ
kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ. Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso
ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena
abyāpajjena. Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā
evamidhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.
‘‘Puna caparaṃ, āvuso, ariyasāvako attano sīlāni anussarati
akhaṇḍāni…pe… samādhisaṃvattanikāni. Yasmiṃ, āvuso, samaye ariyasāvako
attano sīlaṃ anussarati nevassa tasmiṃ samaye
rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na
mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti; ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti,
nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā. ‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ
kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ. Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso
ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena
abyāpajjena. Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā evamidhekacce
sattā visuddhidhammā bhavanti.
‘‘Puna caparaṃ, āvuso, ariyasāvako attano cāgaṃ anussarati – ‘lābhā vata
me, suladdhaṃ vata me…pe… yācayogo dānasaṃvibhāgarato’ti. Yasmiṃ, āvuso,
samaye ariyasāvako attano cāgaṃ anussarati nevassa tasmiṃ samaye
rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ
cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti; ujugatamevassa tasmiṃ
samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā. ‘Gedho’ti kho,
āvuso, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ. Sa kho so, āvuso,
ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena
appamāṇena averena abyāpajjena. Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā
evamidhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.
‘‘Puna caparaṃ, āvuso, ariyasāvako devatā anussarati – ‘santi devā
cātumahārājikā, santi devā…pe… tatuttari. Yathārūpāya saddhāya
samannāgatā tā devatā ito cutā tattha upapannā; mayhampi tathārūpā
saddhā saṃvijjati . Yathārūpena sīlena…pe… sutena…
cāgena… paññāya samannāgatā tā devatā ito cutā tattha upapannā; mayhampi
tathārūpā paññā saṃvijjatī’ti. Yasmiṃ, āvuso, samaye ariyasāvako attano
ca tāsañca devatānaṃ saddhañca sīlañca sutañca cāgañca paññañca
anussarati nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti ,
na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti;
ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ
gedhamhā. ‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ. Sa
kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena
mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena. Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ
karitvā evamidhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.
‘‘Acchariyaṃ , āvuso; abbhutaṃ, āvuso!
Yāvañcidaṃ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena
sambādhe okāsādhigamo anubuddho sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ
samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya
nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ cha anussatiṭṭhānānī’’ti. Chaṭṭhaṃ.
|
6. Mahākaccānasuttavaṇṇanā
26.Chaṭṭhe sambādheti
pañcakāmaguṇasambādhe. Okāsādhigamoti ettha okāsā vuccanti cha anussatiṭṭhānāni,
tesaṃ adhigamo. Visuddhiyāti
visujjhanatthāya. Sokaparidevānaṃ samatikkamāyāti sokānañca paridevānañca
samatikkamatthāya. Atthaṅgamāyāti atthaṃ gamanatthāya . Ñāyassa
adhigamāyāti sahavipassanakassa maggassa
adhigamanatthāya. Nibbānassa
sacchikiriyāyāti apaccayaparinibbānassa
paccakkhakiriyatthāya.
Sabbasoti
sabbākārena. Ākāsasamenāti
alagganaṭṭhena ceva apalibuddhaṭṭhena ca ākāsasadisena. Vipulenāti
na parittakena. Mahaggatenāti
mahantabhāvaṃ gatena, mahantehi vā ariyasāvakehi gatena, paṭipannenāti
attho. Appamāṇenāti pharaṇaappamāṇatāya
appamāṇena. Averenāti
akusalaverapuggalaverarahitena. Abyāpajjhenāti kodhadukkhavajjitena. Sabbametaṃ
buddhānussaticittameva sandhāya vuttaṃ. Paratopi eseva nayo. Visuddhidhammāti
visujjhanasabhāvā. Imasmimpi sutte cha anussatiṭṭhānāni missakāneva
kathitānīti.
|
(VI) (26) Kaccàna
1. Tại đấy, Tôn giả Mahàkaccàna gọi các Tỷ-kheo:
- Chư Hiền giả Tỷ-kheo!
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahàkaccàna. Tôn giả Mahàkaccàna nói
như sau:
2. - Thật vi diệu thay, chư Hiền giả! Thật hy hữu thay, chư Hiền giả!
Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đă
chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy, các loài
hữu t́nh được thanh tịnh, vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được
chánh lư, chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm xứ. Thế nào là sáu?
3. Ở đây, này các Hiền giả, Thánh đệ tử niệm Như Lai: "Đây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Này chư Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm
Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân hận
chi phối, tâm không bị si chi phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực,
ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham, này chư Hiền, là đồng nghĩa
với năm dục trưởng dưỡng. Thánh đệ tử ấy, này chư Hiền, trong tất cả
thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn quảng đại, vô lượng,
không hận, không sân. Này chư Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một
số loài hữu t́nh được thanh tịnh.
4. Lại nữa, này chư Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Pháp: "Pháp được Thế Tôn
khéo thuyết... được các người có trí tự ḿnh giác hiểu". Này chư Hiền,
trong khi Thánh đệ tử niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham chi
phối, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không
bị si phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất
khỏi tham. Tham, này chư Hiền, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không,
rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân. Này chư Hiền, lấy
cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu t́nh được thanh tịnh.
5-8. Lại nữa, này chư Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Tăng: "Diệu hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn... là ruộng phước vô thượng ở đời... niệm các
giới... niệm thí... niệm chư Thiên..." Thánh đệ tử, này chư Hiền, trong
khi niệm chư Thiên, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không
bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, trong khi ấy, tâm được chánh
trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham, này chư Hiền, là đồng
nghĩa với các dục trưởng dưỡng. Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống
với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không
hận, không sân. Này chư Hiền, lấy tư tưởng này làm đối tượng, ở đây, một
số loài hữu t́nh được thanh tịnh.
Thật vi diệu thay, này chư Hiền! Thật hy hữu thay, này chư Hiền, Thế
Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đă chứng
ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy các loài hữu t́nh
được thanh tịnh vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lư,
chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm xứ.
|
7. Paṭhamasamayasuttaṃ
27. Atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ
nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘kati nu kho, bhante, samayā manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya
upasaṅkamitu’’nti? ‘‘Chayime, bhikkhu, samayā manobhāvanīyassa bhikkhuno
dassanāya upasaṅkamituṃ’’.
‘‘Katame cha? Idha, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu
kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā viharati kāmarāgaparetena, uppannassa ca
kāmarāgassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti tasmiṃ samaye
manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo – ‘ahaṃ kho,
āvuso, kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā viharāmi
kāmarāgaparetena, uppannassa ca kāmarāgassa
nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāmi. Sādhu vata me, āyasmā, kāmarāgassa
pahānāya dhammaṃ desetū’ti. Tassa manobhāvanīyo bhikkhu kāmarāgassa
pahānāya dhammaṃ deseti. Ayaṃ, bhikkhu, paṭhamo samayo manobhāvanīyassa
bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu byāpādapariyuṭṭhitena
cetasā viharati byāpādaparetena, uppannassa ca byāpādassa nissaraṇaṃ
yathābhūtaṃ nappajānāti tasmiṃ samaye manobhāvanīyo bhikkhu
upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo – ‘ahaṃ kho, āvuso,
byāpādapariyuṭṭhitena cetasā viharāmi byāpādaparetena, uppannassa ca
byāpādassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāmi. Sādhu vata me, āyasmā,
byāpādassa pahānāya dhammaṃ desetū’ti. Tassa manobhāvanīyo bhikkhu
byāpādassa pahānāya dhammaṃ deseti. Ayaṃ, bhikkhu, dutiyo samayo
manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu
thinamiddhapariyuṭṭhitena cetasā viharati thinamiddhaparetena,
uppannassa ca thinamiddhassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti tasmiṃ
samaye manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo – ‘ahaṃ
kho, āvuso, thinamiddhapariyuṭṭhitena cetasā viharāmi
thinamiddhaparetena, uppannassa ca thinamiddhassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ
nappajānāmi. Sādhu vata me, āyasmā, thinamiddhassa pahānāya dhammaṃ
desetū’ti. Tassa manobhāvanīyo bhikkhu thinamiddhassa pahānāya dhammaṃ deseti .
Ayaṃ, bhikkhu, tatiyo samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya
upasaṅkamituṃ.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu
uddhaccakukkuccapariyuṭṭhitena cetasā viharati uddhaccakukkuccaparetena,
uppannassa ca uddhaccakukkuccassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti
tasmiṃ samaye manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo –
‘ahaṃ kho, āvuso, uddhaccakukkuccapariyuṭṭhitena cetasā viharāmi
uddhaccakukkuccaparetena, uppannassa ca uddhaccakukkuccassa nissaraṇaṃ
yathābhūtaṃ nappajānāmi. Sādhu vata me, āyasmā, uddhaccakukkuccassa
pahānāya dhammaṃ desetū’ti. Tassa manobhāvanīyo bhikkhu
uddhaccakukkuccassa pahānāya dhammaṃ deseti. Ayaṃ, bhikkhu, catuttho
samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu vicikicchāpariyuṭṭhitena
cetasā viharati vicikicchāparetena, uppannāya ca vicikicchāya nissaraṇaṃ
yathābhūtaṃ nappajānāti tasmiṃ samaye manobhāvanīyo bhikkhu
upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo – ‘ahaṃ, āvuso, vicikicchāpariyuṭṭhitena
cetasā viharāmi vicikicchāparetena, uppannāya ca vicikicchāya nissaraṇaṃ
yathābhūtaṃ nappajānāmi. Sādhu vata me, āyasmā, vicikicchāya pahānāya
dhammaṃ desetū’ti. Tassa manobhāvanīyo bhikkhu vicikicchāya pahānāya
dhammaṃ deseti. Ayaṃ, bhikkhu, pañcamo samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno
dassanāya upasaṅkamituṃ.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu yaṃ nimittaṃ āgamma yaṃ
nimittaṃ manasikaroto anantarā āsavānaṃ khayo hoti taṃ nimittaṃ
nappajānāti tasmiṃ samaye manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa
vacanīyo – ‘ahaṃ kho, āvuso, yaṃ nimittaṃ āgamma yaṃ
nimittaṃ manasikaroto anantarā āsavānaṃ khayo
hoti, taṃ nimittaṃ nappajānāmi. Sādhu vata me, āyasmā, āsavānaṃ khayāya
dhammaṃ desetū’ti. Tassa manobhāvanīyo bhikkhu āsavānaṃ khayāya dhammaṃ
deseti. Ayaṃ, bhikkhu, chaṭṭho samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno
dassanāya upasaṅkamituṃ. Ime kho, bhikkhu, cha samayā manobhāvanīyassa
bhikkhuno dassanāya upasaṅkamitu’’nti. Sattamaṃ.
|
7. Paṭhamasamayasuttavaṇṇanā
27.
Sattame manobhāvanīyassāti
ettha manaṃ bhāveti vaḍḍhetīti manobhāvanīyo. Dassanāyāti
dassanatthaṃ. Nissaraṇanti
niggamanaṃ vūpasamanaṃ. Dhammaṃ desetīti kāmarāgappajahanatthāya
asubhakammaṭṭhānaṃ katheti. Dutiyavārādīsu byāpādappahānāya
mettākammaṭṭhānaṃ, thinamiddhappahānāya thinamiddhavinodanakammaṭṭhānaṃ,
ālokasaññaṃ vā vīriyārambhavatthuādīnaṃ vā aññataraṃ,
uddhaccakukkuccappahānāya samathakammaṭṭhānaṃ, vicikicchāpahānāya tiṇṇaṃ
ratanānaṃ guṇakathaṃ kathento dhammaṃ desetīti veditabbo. Āgammāti
ārabbha. Manasikarototi
ārammaṇavasena citte karontassa. Anantarā āsavānaṃ khayo hotīti anantarāyena āsavānaṃ khayo
hoti.
|
(VII) (27) Các Thời Gian (1)
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Có bao nhiêu thời gian để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đă được tu tập về ư?
2. - Có sáu thời gian, này Tỷ-kheo, để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đă được
tu tập về ư. Thế nào là sáu?
3. Ở đây, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị dục tham chi
phối, bị dục tham ám ảnh, vị ấy không như thật rơ biết dục tham đang
khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đă được tu tập về ư, vị ấy
cần được nói như sau: "Thưa Hiền giả, tôi sống với tâm bị dục tham chi
phối, bị dục tham ám ảnh, tôi không như thật rơ biết xuất ly khỏi dục
tham. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn tận dục tham".
Và Tỷ-kheo đă được tu tập về ư thuyết pháp để đoạn tham. Này Tỷ-kheo,
đây là thời thứ nhất để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đă được tu tập về ư.
4. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị sân chi phối,
bị sân ám ảnh, không như thật rơ biết xuất ly khỏi sân được khởi lên,
trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đă được tu tập về ư, vị ấy cần được
nói như sau: "Thưa Hiền giả, tôi sống với tâm bị dục sân chi phối, bị
dục sân ám ảnh, tôi không như thật rơ biết xuất ly khỏi sân. Lành thay,
nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn tận sân". Và Tỷ-kheo đă được tu
tập về ư thuyết pháp để đoạn sân. Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ hai để đi
đến yết kiến Tỷ-kheo đă được tu tập về ư.
5-7. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị hôn trầm
thụy miên chi phối, bị hôn trầm thụy miên ám ảnh... bị trạo hối chi
phối, bị trạo hối ám ảnh... bị nghi chi phối, bị nghi ám ảnh, không như
thật rơ biết xuất ly khỏi nghi được khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến,
Tỷ-kheo đă được tu tập về ư, vị ấy cần được nói như sau: "Thưa Hiền giả,
tôi sống với tâm bị nghi chi phối, bị tâm bị nghi ám ảnh. Tôi không như
thật rơ biết xuất ly khỏi nghi. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho
tôi để đoạn tận nghi". Và Tỷ-kheo đă được tu tập về ư thuyết pháp để
đoạn tận nghi. Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ năm để đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đă được tu tập về ư.
8. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo y cứ nơi tướng nào, do tác ư
tướng ấy, các lậu hoặc được đoạn diệt, không có gián đoạn, vị ấy không
biết, không thấy tướng ấy, trong khi ấy, sau khi đi đến Tỷ-kheo đă được
tu tập về ư, vị ấy cần được nói như sau: "Thưa Hiền giả, y cứ nơi tướng
nào, do tác ư tướng ấy các lậu hoặc được đoạn diệt, không có gián đoạn,
tôi không biết không thấy tướng ấy. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp
cho tôi để đoạn diệt các lậu hoặc". Và Tỷ-kheo đă được tu tập về ư
thuyết pháp để đoạn diệt các lậu hoặc. Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ sáu
để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đă được tu tập về ư.
Đây là sáu thời gian, này Tỷ-kheo, để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đă được tu
tập về ư.
|
8. Dutiyasamayasuttaṃ
28. Ekaṃ samayaṃ
sambahulā therā bhikkhū bārāṇasiyaṃ viharanti isipatane migadāye. Atha
kho tesaṃ therānaṃ bhikkhūnaṃ pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantānaṃ
maṇḍalamāḷe sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ ayamantarākathā udapādi – ‘‘ko
nu kho, āvuso, samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya
upasaṅkamitu’’nti?
Evaṃ vutte aññataro bhikkhu there bhikkhū etadavoca – ‘‘yasmiṃ, āvuso,
samaye manobhāvanīyo bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto pāde
pakkhāletvā nisinno hoti pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya
parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā, so samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno
dassanāya upasaṅkamitu’’nti.
Evaṃ vutte aññataro bhikkhu taṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘na kho, āvuso ,
so samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ. Yasmiṃ,
āvuso, samaye manobhāvanīyo bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto
pāde pakkhāletvā nisinno hoti pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya
parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā, cārittakilamathopissa tasmiṃ samaye
appaṭippassaddho hoti, bhattakilamathopissa tasmiṃ samaye
appaṭippassaddho hoti. Tasmā so asamayo manobhāvanīyassa bhikkhuno
dassanāya upasaṅkamituṃ. Yasmiṃ, āvuso, samaye manobhāvanīyo bhikkhu
sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito vihārapacchāyāyaṃ nisinno hoti
pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā,
so samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamitu’’nti.
Evaṃ vutte aññataro bhikkhu taṃ bhikkhuṃ etadavoca
– ‘‘na kho, āvuso, so samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya
upasaṅkamituṃ. Yasmiṃ, āvuso, samaye manobhāvanīyo bhikkhu
sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito vihārapacchāyāyaṃ nisinno hoti
pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā,
yadevassa divā samādhinimittaṃ manasikataṃ hoti tadevassa tasmiṃ samaye
samudācarati. Tasmā so asamayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.
Yasmiṃ, āvuso, samaye manobhāvanīyo bhikkhu rattiyā paccūsasamayaṃ
paccuṭṭhāya nisinno hoti pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya
parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā, so samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno
dassanāya upasaṅkamitu’’nti.
Evaṃ vutte aññataro bhikkhu taṃ bhikkhuṃ etadavoca
– ‘‘na kho, āvuso, so samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya
upasaṅkamituṃ. Yasmiṃ, āvuso, samaye manobhāvanīyo bhikkhu rattiyā
paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya nisinno hoti pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ
paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā, ojaṭṭhāyissa tasmiṃ samaye kāyo
hoti phāsussa hoti buddhānaṃ sāsanaṃ manasi kātuṃ. Tasmā so asamayo
manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamitu’’nti.
Evaṃ vutte āyasmā mahākaccāno there bhikkhū etadavoca – ‘‘sammukhā
metaṃ, āvuso, bhagavato sutaṃ sammukhā paṭiggahitaṃ – ‘chayime, bhikkhu,
samayā manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ’’’.
‘‘Katame cha? Idha, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu
kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā viharati kāmarāgaparetena, uppannassa ca
kāmarāgassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti, tasmiṃ samaye
manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo – ‘ahaṃ kho,
āvuso, kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā viharāmi kāmarāgaparetena,
uppannassa ca kāmarāgassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāmi. Sādhu
vata me āyasmā kāmarāgassa pahānāya dhammaṃ
desetū’ti. Tassa manobhāvanīyo bhikkhu kāmarāgassa pahānāya dhammaṃ
deseti. Ayaṃ, bhikkhu, paṭhamo samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno
dassanāya upasaṅkamituṃ.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu
byāpādapariyuṭṭhitena cetasā viharati…pe… thinamiddhapariyuṭṭhitena
cetasā viharati… uddhaccakukkuccapariyuṭṭhitena
cetasā viharati… vicikicchāpariyuṭṭhitena cetasā viharati… yaṃ nimittaṃ
āgamma yaṃ nimittaṃ manasikaroto anantarā āsavānaṃ
khayo hoti, taṃ nimittaṃ na jānāti na passati, tasmiṃ samaye
manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo – ‘ahaṃ kho,
āvuso, yaṃ nimittaṃ āgamma yaṃ nimittaṃ manasikaroto anantarā āsavānaṃ
khayo hoti taṃ nimittaṃ na jānāmi na passāmi. Sādhu vata me āyasmā
āsavānaṃ khayāya dhammaṃ desetū’ti. Tassa manobhāvanīyo bhikkhu āsavānaṃ
khayāya dhammaṃ deseti. Ayaṃ, bhikkhu, chaṭṭho samayo manobhāvanīyassa
bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.
‘‘Sammukhā metaṃ, āvuso, bhagavato sutaṃ sammukhā paṭiggahitaṃ –
‘ime kho, bhikkhu, cha samayā manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya
upasaṅkamitu’’’nti. Aṭṭhamaṃ.
|
8. Dutiyasamayasuttavaṇṇanā
28.
Aṭṭhame maṇḍalamāḷeti
bhojanasālāya. Cārittakilamathoti
piṇḍapātacariyāya uppannakilamatho. Bhattakilamathoti
bhattadaratho. Vihārapacchāyāyanti
vihārapaccante chāyāya. Yadevassadivā samādhinimittaṃ manasikataṃ hotīti
yaṃ eva tassa tato purimadivasabhāge samathanimittaṃ citte kataṃ hoti. Tadevassa
tasmiṃ samaye samudācaratīti taṃyeva etassa tasmiṃ samaye
divāvihāre nisinnassa manodvāre sañcarati. Ojaṭṭhāyīti ojāya ṭhito patiṭṭhito. Phāsukassahotīti
phāsukaṃ assa hoti. Sammukhāti kathentassa sammukhaṭṭhāne. Sutanti
sotena sutaṃ. Paṭiggahitanti
cittena paṭiggahitaṃ.
|
(VIII) (28) Các Thời
Gian (2)
1. Một thời, rất nhiều Tỷ-kheo trú tại Bàrànasi, chỗ chư Thiên đọa xứ,
vườn Lộc Uyển. Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, các
vị Tỷ-kheo ngồi tụ họp lại trong căn nhà h́nh tṛn, và câu chuyện sau
đây được khởi lên:
- Này chư Hiền, thời giờ nào để đi đến yết kiến vị Tỷ-kheo đă được tu
tập về ư?
2. Được nói vậy, một Tỷ-kheo bạch với các Tỷ-kheo trưởng lăo:
- Thưa chư Hiền, khi nào vị Tỷ-kheo đă được tu tập về ư, sau buổi ăn
trưa, trên con đường khất thực trở về, sau khi rửa chân, đă ngồi xuống,
kiết-già, lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, đấy là thời để đi đến yết
kiến Tỷ-kheo đă được tu tập về ư.
3. Được nói vậy, một Tỷ-kheo khác nói với Tỷ-kheo ấy:
- Thưa Hiền giả, đây không phải thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đă được
tu tập về ư. Này Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu tập về ư, sau bữa
ăn, trên con đường khất thực trở về, sau khi rửa chân, ngồi kiết-già,
lưng thẳng, để niệm trước mặt, bị mệt mỏi v́ đi bộ, trong khi ấy, không
cảm thấy khinh an, bị mệt mỏi v́ ăn uống, trong khi ấy, không cảm thấy
khinh an. Do vậy, không phải thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo được tu tập
về ư. Này Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu tập về ư, vào buổi chiều,
từ Thiền tịnh đứng dậy, dưới bóng của tịnh xá, ngồi kiết-già, lưng
thẳng, để niệm trước mặt, thời ấy chính là thời để đi đến yết kiến
Tỷ-kheo đă được tu tập về ư.
4. Được nói vậy, một Tỷ-kheo khác nói với vị Tỷ-kheo ấy:
- Thời ấy không phải thời để đi yết kiến Tỷ-kheo đă được tu tập về ư.
Thưa Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu tập về ư, vào buổi chiều từ
Thiền tịnh đứng dậy, dưới bóng ngôi tịnh xá, ngồi kiết-già, lưng thẳng,
để niệm trước mặt, định tướng ǵ vị ấy tác ư ban ngày, định tướng ấy
trong khi ấy được hiện hành. Do vậy, đây không phải là thời để đi yết
kiến Tỷ-kheo đă được tu tập về ư. Này Hiền giả, Tỷ-kheo được tu tập về
ư, sau khi đêm vừa măn, mới thức dậy, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm
trước mặt. Khi ấy là thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đă được tu tập về
ư.
5. Được nói vậy, một Tỷ-kheo khác nói với Tỷ-kheo ấy:
- Khi ấy không phải thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo được tu tập về ư.
Này Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu tập về ư, sau khi đêm đă măn,
thức dậy, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt, trong khi ấy,
thân thể đầy nhựa sống, vị ấy cảm giác thoải mái, tác ư đến lời dạy của
các đức Phật. Do vậy, khi ấy không phải là thời để yết kiến Tỷ-kheo được
tu tập về ư.
6. Được nói vậy, Tôn giả Mahà Kaccàna nói với các Tỷ-kheo trưởng lăo ấy:
- Thưa các Hiền giả, tôi tự thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lănh thọ như
sau: Có sáu thời này, Tỷ-kheo nên đi đến yết kiến Tỷ-kheo đă được tu tập
về ư. Thế nào là sáu?
7-8. Mahà Kaccàna (lặp lại kinh 27 ở trên).
- Thưa chư Hiền, chính tôi tự thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lănh thọ như
sau: Có sáu thời này, Tỷ-kheo cần đi đến yết kiến Tỷ-kheo đă được tu tập
về ư.
|
9. Udāyīsuttaṃ
29. Atha kho bhagavā āyasmantaṃ udāyiṃ āmantesi – ‘‘kati nu kho,
udāyi, anussatiṭṭhānānī’’ti? Evaṃ vutte āyasmā udāyī tuṇhī ahosi.
Dutiyampi kho bhagavā āyasmantaṃ udāyiṃ āmantesi – ‘‘kati nu kho, udāyi,
anussatiṭṭhānānī’’ti? Dutiyampi kho āyasmā udāyī tuṇhī ahosi. Tatiyampi
kho bhagavā āyasmantaṃ udāyiṃ āmantesi – ‘‘kati nu kho, udāyi,
anussatiṭṭhānānī’’ti? Tatiyampi kho āyasmā udāyī tuṇhī ahosi.
Atha kho āyasmā ānando āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ, āvuso
udāyi, āmantesī’’ti. ‘‘Suṇomahaṃ , āvuso ānanda,
bhagavato. Idha , bhante, bhikkhu anekavihitaṃ
pubbenivāsaṃ anussarati – seyyathidaṃ ekampi jātiṃ dvepi jātiyo…pe…. Iti
sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati. Idaṃ, bhante,
anussatiṭṭhāna’’nti.
Atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi –
‘‘aññāsiṃ kho ahaṃ, ānanda – ‘nevāyaṃ udāyī moghapuriso adhicittaṃ
anuyutto viharatī’ti. Kati nu kho, ānanda, anussatiṭṭhānānī’’ti?
‘‘Pañca, bhante, anussatiṭṭhānāni. Katamāni pañca? Idha, bhante, bhikkhu
vivicceva kāmehi…pe… tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Idaṃ, bhante,
anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ bahulīkataṃ diṭṭhadhammasukhavihārāya
saṃvattati.
‘‘Puna caparaṃ, bhante, bhikkhu ālokasaññaṃ manasi karoti, divā saññaṃ
adhiṭṭhāti, yathā divā tathā rattiṃ, yathā rattiṃ tathā divā; iti
vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṃ cittaṃ
bhāveti. Idaṃ, bhante, anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ bahulīkataṃ
ñāṇadassanappaṭilābhāya saṃvattati.
‘‘Puna caparaṃ, bhante, bhikkhu imameva kāyaṃ uddhaṃ pādatalā adho
kesamatthakā tacapariyantaṃ pūraṃ nānappakārassa asucino paccavekkhati –
‘atthi imasmiṃ kāye kesā lomā nakhā dantā taco maṃsaṃ nhāru [nahāru
(sī. pī.) dī. ni. 2.377; ma. ni. 1.110] aṭṭhi
aṭṭhimiñjaṃ vakkaṃ hadayaṃ yakanaṃ kilomakaṃ pihakaṃ papphāsaṃ antaṃ
antaguṇaṃ udariyaṃ karīsaṃ pittaṃ semhaṃ pubbo lohitaṃ sedo medo assu
vasā kheḷo siṅghāṇikā lasikā mutta’nti. Idaṃ, bhante ,
anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ bahulīkataṃ kāmarāgappahānāya
saṃvattati.
‘‘Puna caparaṃ, bhante, bhikkhu seyyathāpi passeyya sarīraṃ sīvathikāya
chaḍḍitaṃ [chaḍḍitaṃ (sī. syā.
pī.)] ekāhamataṃ
vā dvīhamataṃ vā tīhamataṃ vā uddhumātakaṃ
vinīlakaṃ vipubbakajātaṃ. So imameva kāyaṃ evaṃ [evanti
idaṃ satipaṭṭhānasuttādīsu natthi] upasaṃharati – ‘ayampi
kho kāyo evaṃdhammo evaṃbhāvī evaṃanatīto’’’ti [etaṃ
anatītoti (sī.)].
‘‘Seyyathāpi vā pana [seyyathā vā pana
(syā.)] passeyya
sarīraṃ sīvathikāya chaḍḍitaṃ kākehi vā khajjamānaṃ kulalehi vā
khajjamānaṃ gijjhehi vā khajjamānaṃ sunakhehi vā khajjamānaṃ siṅgālehi [sigālehi (sī.)] vā khajjamānaṃ vividhehi
vā pāṇakajātehi khajjamānaṃ. So imameva kāyaṃ evaṃ upasaṃharati –
‘ayampi kho kāyo evaṃdhammo evaṃbhāvī evaṃanatīto’’’ti.
‘‘Seyyathāpi vā pana passeyya sarīraṃ sīvathikāya chaḍḍitaṃ
aṭṭhikasaṅkhalikaṃ samaṃsalohitaṃ nhārusambandhaṃ…pe… aṭṭhikasaṅkhalikaṃ
nimmaṃsalohitamakkhitaṃ nhārusambandhaṃ… aṭṭhikasaṅkhalikaṃ
apagatamaṃsalohitaṃ nhārusambandhaṃ. Aṭṭhikāni apagatasambandhāni
disāvidisāvikkhittāni [disāvidisāsu vikkhittāni (sī.)],
aññena hatthaṭṭhikaṃ aññena pādaṭṭhikaṃ aññena jaṅghaṭṭhikaṃ aññena
ūruṭṭhikaṃ aññena kaṭiṭṭhikaṃ [kaṭaṭṭhikaṃ (sī.)] aññena [piṭṭhikaṇḍakaṃ aññena sīsakaṭāhaṃ (sī. pī.), piṭṭhikaṇḍakaṭṭhikaṃ
aññena sīsakaṭāhaṃ (syā. kaṃ.)] phāsukaṭṭhikaṃ aññena
piṭṭhikaṇṭakaṭṭhikaṃ aññena khandhaṭṭhikaṃ aññena gīvaṭṭhikaṃ aññena
hanukaṭṭhikaṃ aññena dantakaṭṭhikaṃ aññena sīsakaṭāhaṃ [piṭṭhikaṇḍakaṃ aññena
sīsakaṭāhaṃ (sī. pī.), piṭṭhikaṇḍakaṭṭhikaṃ aññena sīsakaṭāhaṃ (syā.
kaṃ.)],
aṭṭhikāni setāni saṅkhavaṇṇappaṭibhāgāni [saṅkhavaṇṇūpanibhāni
(sī. syā. pī.)] aṭṭhikāni puñjakitāni [puñjakatāni
(pī.)] terovassikāni aṭṭhikāni pūtīni cuṇṇakajātāni. So imameva kāyaṃ
evaṃ upasaṃharati – ‘ayampi kho kāyo evaṃdhammo
evaṃbhāvī evaṃanatīto’ti. Idaṃ, bhante, anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ
evaṃ bahulīkataṃ asmimānasamugghātāya saṃvattati.
‘‘Puna caparaṃ, bhante, bhikkhu sukhassa ca pahānā…pe… catutthaṃ jhānaṃ
upasampajja viharati. Idaṃ, bhante, anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ
bahulīkataṃ anekadhātupaṭivedhāya saṃvattati. Imāni kho, bhante, pañca
anussatiṭṭhānānī’’ti.
‘‘Sādhu, sādhu, ānanda! Tena hi tvaṃ, ānanda, idampi chaṭṭhaṃ
anussatiṭṭhānaṃ dhārehi. Idhānanda, bhikkhu satova abhikkamati satova
paṭikkamati satova tiṭṭhati satova nisīdati satova seyyaṃ kappeti satova
kammaṃ adhiṭṭhāti. Idaṃ, ānanda, anussatiṭṭhānaṃ evaṃ bhāvitaṃ evaṃ
bahulīkataṃ satisampajaññāya saṃvattatī’’ti. Navamaṃ.
|
9. Udāyīsuttavaṇṇanā
29.
Navame udāyinti
lāḷudāyittheraṃ. Suṇomahaṃ,
āvusoti, āvuso, nāhaṃ badhiro, suṇāmi bhagavato vacanaṃ,
pañhaṃ pana upaparikkhāmīti. Adhicittanti samādhivipassanācittaṃ. Idaṃ,
bhante, anussatiṭṭhānanti idaṃ jhānattayasaṅkhātaṃ
anussatikāraṇaṃ. Diṭṭhadhammasukhavihārāya
saṃvattatīti imasmiṃyeva attabhāve sukhavihāratthāya
pavattati. Ālokasaññanti
ālokanimitte uppannasaññaṃ. Divā saññaṃ adhiṭṭhātīti divāti saññaṃ ṭhapeti . Yathā divā tathā rattinti yathānena divā ālokasaññā
manasikatā, rattimpi tatheva taṃ manasi karoti. Yathā
rattiṃ tathā divāti yathā vānena rattiṃ ālokasaññā
manasikatā, divāpi taṃ tatheva manasi karoti. Vivaṭenāti
pākaṭena. Apariyonaddhenāti
nīvaraṇehi anonaddhena. Sappabhāsaṃ cittaṃ bhāvetīti dibbacakkhuñāṇatthāya
sahobhāsakaṃ cittaṃ brūheti vaḍḍheti. Yaṃ pana ‘‘ālokasaññaṃmanasi
karotī’’ti vuttaṃ, taṃ thinamiddhavinodanālokasaññaṃ sandhāya vuttaṃ, na
dibbacakkhuñāṇālokanti veditabbaṃ. Ñāṇadassanappaṭilābhāyāti
dibbacakkhusaṅkhātassa ñāṇadassanassa paṭilābhāya.
Imameva kāyantiādīsu
yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ sabbākārena vitthārato visuddhimagge
kāyagatāsatikammaṭṭhāne vuttaṃ. Kāmarāgappahānāyāti pañcakāmaguṇikassa rāgassa
pahānatthāya. Seyyathāpi
passeyyāti yathā passeyya. Sarīranti
matasarīraṃ. Sivathikāya
chaḍḍitanti susāne apaviddhaṃ. Ekāhaṃ matassa assāti ekāhamataṃ.
Dvīhaṃ matassa assāti dvīhamataṃ.
Tīhaṃ matassa assāti tīhamataṃ. Bhastā viya vāyunā uddhaṃ jīvitapariyādānā
yathānukkamaṃ samuggatena sūnabhāvena dhumātattā uddhumātaṃ,
uddhumātameva uddhumātakaṃ.
Paṭikūlattā vā kucchitaṃ uddhumātanti uddhumātakaṃ.
Vinīlaṃ vuccati viparibhinnavaṇṇaṃ, vinīlameva vinīlakaṃ. Paṭikūlattā vā kucchitaṃ vinīlanti vinīlakaṃ.
Maṃsussadaṭṭhānesu rattavaṇṇassa pubbasannicayaṭṭhānesu setavaṇṇassa
yebhuyyena ca nīlavaṇṇassa nīlaṭṭhāne nīlasāṭakapārutasseva
chavasarīrassetaṃ adhivacanaṃ. Paribhinnaṭṭhānehi navahi vā vaṇamukhehi
vissandamānaṃ pubbaṃ vipubbaṃ, vipubbameva vipubbakaṃ.
Paṭikūlattā vā kucchitaṃ vipubbanti vipubbakaṃ. Vipubbakaṃ jātaṃ
tathābhāvaṃ gatanti vipubbakajātaṃ.
Soimameva kāyanti
so bhikkhu imaṃ attano kāyaṃ tena kāyena saddhiṃ ñāṇena upasaṃharati
upaneti. Kathaṃ? Ayampi
kho kāyo evaṃdhammo evaṃbhāvī evaṃanatītoti. Idaṃ vuttaṃ
hoti – āyu usmā viññāṇanti imesaṃ tiṇṇaṃ dhammānaṃ atthitāya ayaṃ kāyo
ṭhānagamanādikhamo hoti, imesaṃ pana vigamā ayampi evaṃdhammo
evaṃpūtikasabhāvoyevāti. Evaṃbhāvīti
evamevaṃ uddhumātādibhedo bhavissati. Evaṃ
anatītoti evaṃ uddhumātādibhāvaṃ anatikkanto.
Khajjamānanti udarādīsu
nisīditvā udaramaṃsaoṭṭhamaṃsaakkhikamaṃsādīni luñcitvā luñcitvā
khādiyamānaṃ. Samaṃsalohitanti sesāvasesamaṃsalohitayuttaṃ. Nimmaṃsalohitamakkhitanti
maṃse khīṇepi lohitaṃ na sussati, taṃ sandhāya vuttaṃ –
‘‘nimmaṃsalohitamakkhita’’nti. Aññenāti aññena disābhāgena. Hatthaṭṭhikanti
catusaṭṭhibhedampi hatthaṭṭhikaṃ pāṭiyekkaṃ pāṭiyekkaṃ vippakiṇṇaṃ. Pādaṭṭhikādīsupi
eseva nayo. Terovassikānīti
atikkantasaṃvaccharāni. Pūtīnīti abbhokāse ṭhitāni vātātapavuṭṭhisamphassena
terovassikāneva pūtīni honti, antobhūmigatāni pana cirataraṃ tiṭṭhanti. Cuṇṇakajātānīti
cuṇṇavicuṇṇaṃ hutvā vippakiṇṇāni. Sabbattha so
imamevāti vuttanayena khajjamānādīnaṃ vasena yojanā
kātabbā. Asmimānasamugghātāyāti
asmīti pavattassa navavidhassa mānassa samugghātatthāya. Anekadhātupaṭivedhāyāti
anekadhātūnaṃ paṭivijjhanatthāya. Satova
abhikkamatīti gacchanto satipaññāhi samannāgatova
gacchati. Satova
paṭikkamatīti paṭinivattantopi satipaññāhi samannāgatova
nivattati. Sesapadesupi eseva nayo. Satisampajaññāyāti
satiyā ca ñāṇassa ca atthāya. Iti imasmiṃ sutte satiñāṇāni missakāni
kathitānīti.
|
(IX) (29) Udàyi
1. Rồi Thế Tôn gọi Tôn giả Udàyi:
- Này Udàyi, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?
Được nói vậy, Tôn giả Udàyi giữ im lặng. Lần thứ hai, Thế Tôn bảo Tôn
giả Udàyi:
- Có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?
Lần thứ hai, Tôn giả Udàyi giữ im lặng. Lần thứ ba, Thế Tôn bảo Tôn giả
Udàyi:
- Có bao nhiêu chỗ để tùy niệm? Lần thứ ba, Tôn giả Udàyi giữ im lặng.
Rồi Tôn giả Ananda nói với Tôn giả Udàyi:
- Này Hiền giả Udàyi, Thế Tôn gọi Hiền giả!
- Thưa Hiền giả Ananda, tôi có nghe Thế Tôn gọi. Bạch Thế Tôn, khi
Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời trước ở quá khứ như một đời, hai đời... vị ấy
nhớ nhiều đời trước với các nét đại cương và các chi tiết. Bạch Thế Tôn,
đây là chỗ để tùy niệm.
Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:
- Ta đă biết, này Ananda, kẻ ngu Udàyi này không sống chuyên tâm vào
tăng thượng tâm. Này Ananda, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?
- Bạch Thế Tôn, có năm chỗ để tùy niệm. Thế nào là năm?
2. Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện... chứng đạt
và an trú Thiền thứ ba. Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, như vậy tu
tập, như vậy làm cho sung măn, đưa đến hiện tại lạc trú.
3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo tác ư với tưởng ánh sáng, trú vào
tưởng ban ngày. Ngày như thế nào thời đêm như vậy. Đêm như thế nào thời
ngày như vậy. Như vậy, với tâm rộng mở, không có hạn chế, vị ấy tu tập
tâm với ánh sáng, chiếu sáng. Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, tu
tập như vậy, làm cho sung măn, đưa đến chứng đắc tri kiến.
4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo quán sát thân này từ bàn chân trở lên
trên, từ đảnh tóc trở xuống, được da bọc và chứa đầy những vật bất tịnh
sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân,
xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng
ruột, bụng, phân, mật, đàm, mũ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước
miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu. Bạch Thế Tôn, đây là chỗ
để tùy niệm, tu tập như vậy, làm sung măn như vậy, đưa đến đoạn tận tham
dục.
5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, ví như vị Tỷ-kheo thấy một thi thể quăng bỏ
trong nghĩa địa, một ngày hay hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng
lên, xanh ứ lại, thối ra mủ chảy. Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này
như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt
khỏi tánh chất ấy". Ví như vị ấy thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa
địa, bị các loại quạ ăn; hay bị các loài diều hâu ăn; hay bị các chim
kên ăn; hay bị các loài chó ăn; hay bị các loài dă can ăn; hay bị các
loài côn trùng ăn. Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau: "Thân
này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất
ấy". Ví như vị ấy thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, với các
xương c̣n liên kết với nhau, c̣n dính thịt và máu, c̣n được các đường
gân cột lại; với các bộ xương c̣n liên kết với nhau, không c̣n dính
thịt, nhưng c̣n dính máu, c̣n được các đường gân cột lại; với các bộ
xương c̣n liên kết với nhau, không c̣n thịt và máu, c̣n được các đường
gân cột lại; chỉ c̣n xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ
kia. Ở đây, là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây
là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là đầu.
Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau: "Thân này bản chất là như
vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy". Hay ví như vị
ấy thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ c̣n toàn xương trắng
màu vỏ ốc, chỉ c̣n một đống xương lâu hơn một năm, chỉ c̣n là xương thối
trở thành bột. Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau:: "Thân này
bản chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".
Đây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế Tôn, được tu tập như vậy, được làm cho
sung măn như vậy, đưa đến nhổ tận gốc kiêu mạn "Tôi là".
6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo bỏ lạc, bỏ khổ... chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư. Đây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế Tôn, được tu tập như vậy,
được làm cho sung măn như vậy, đưa đến sự thể nhập hoàn toàn các giới
sai khác nhau.
Bạch Thế Tôn, đây là năm chỗ để tùy niệm.
- Lành thay, lành thay, này Ananda! Đây là chỗ tùy niệm thứ sáu, hăy thọ
tŕ ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo chánh niệm đi ra, chánh niệm đi vào,
chánh niệm ngồi, chánh niệm nằm, chánh niệm trong khi làm việc. Này
Ananda, đây là chỗ để tùy niệm, như vậy tu tập, như vậy làm cho sung
măn, được đưa đến chánh niệm tỉnh giác.
|
10. Anuttariyasuttaṃ
30. ‘‘Chayimāni, bhikkhave, anuttariyāni. Katamāni cha?
Dassanānuttariyaṃ, savanānuttariyaṃ, lābhānuttariyaṃ, sikkhānuttariyaṃ,
pāricariyānuttariyaṃ, anussatānuttariyanti.
‘‘Katamañca , bhikkhave, dassanānuttariyaṃ? Idha,
bhikkhave, ekacco hatthiratanampi dassanāya gacchati, assaratanampi
dassanāya gacchati, maṇiratanampi dassanāya gacchati, uccāvacaṃ vā pana
dassanāya gacchati, samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā micchādiṭṭhikaṃ
micchāpaṭipannaṃ dassanāya gacchati. Atthetaṃ, bhikkhave, dassanaṃ;
netaṃ natthīti vadāmi. Tañca kho etaṃ, bhikkhave, dassanaṃ hīnaṃ gammaṃ
pothujjanikaṃ anariyaṃ anatthasaṃhitaṃ, na nibbidāya na virāgāya na
nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya
na nibbānāya saṃvattati. Yo ca kho, bhikkhave,
tathāgataṃ vā tathāgatasāvakaṃ vā dassanāya gacchati niviṭṭhasaddho
niviṭṭhapemo ekantagato abhippasanno, etadānuttariyaṃ, bhikkhave,
dassanānaṃ sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ [sokapariddavānaṃ
(sī.)] samatikkamāya
dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya [atthagamāya
(sī.)] ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ tathāgataṃ
vā tathāgatasāvakaṃ vā dassanāya gacchati niviṭṭhasaddho niviṭṭhapemo
ekantagato abhippasanno. Idaṃ vuccati, bhikkhave, dassanānuttariyaṃ. Iti
dassanānuttariyaṃ.
‘‘Savanānuttariyañca kathaṃ hoti? Idha, bhikkhave, ekacco bherisaddampi [bherisaddassapi (ka.) evaṃ vīṇāsaddampiiccādīsupi] savanāya
gacchati, vīṇāsaddampi savanāya gacchati, gītasaddampi savanāya
gacchati, uccāvacaṃ vā pana savanāya gacchati, samaṇassa vā brāhmaṇassa
vā micchādiṭṭhikassa micchāpaṭipannassa dhammassavanāya gacchati.
Atthetaṃ, bhikkhave, savanaṃ; netaṃ natthīti vadāmi. Tañca kho etaṃ,
bhikkhave, savanaṃ hīnaṃ gammaṃ pothujjanikaṃ anariyaṃ anatthasaṃhitaṃ,
na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na
sambodhāya na nibbānāya saṃvattati. Yo ca kho, bhikkhave, tathāgatassa
vā tathāgatasāvakassa vā dhammassavanāya gacchati niviṭṭhasaddho
niviṭṭhapemo ekantagato abhippasanno, etadānuttariyaṃ, bhikkhave,
savanānaṃ sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya
dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa
sacchikiriyāya, yadidaṃ tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā
dhammassavanāya gacchati niviṭṭhasaddho
niviṭṭhapemo ekantagato abhippasanno. Idaṃ vuccati, bhikkhave,
savanānuttariyaṃ. Iti dassanānuttariyaṃ, savanānuttariyaṃ.
‘‘Lābhānuttariyañca kathaṃ hoti? Idha, bhikkhave, ekacco puttalābhampi
labhati, dāralābhampi labhati, dhanalābhampi labhati, uccāvacaṃ vā pana lābhaṃ
labhati, samaṇe vā brāhmaṇe vā micchādiṭṭhike
micchāpaṭipanne saddhaṃ paṭilabhati. Attheso, bhikkhave, lābho; neso
natthīti vadāmi. So ca kho eso, bhikkhave, lābho hīno gammo pothujjaniko
anariyo anatthasaṃhito, na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na
upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattati. Yo ca kho,
bhikkhave, tathāgate vā tathāgatasāvake vā saddhaṃ
paṭilabhati niviṭṭhasaddho niviṭṭhapemo ekantagato abhippasanno,
etadānuttariyaṃ, bhikkhave, lābhānaṃ sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ
samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya
nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ tathāgate vā tathāgatasāvake vā
saddhaṃ paṭilabhati niviṭṭhasaddho niviṭṭhapemo ekantagato abhippasanno.
Idaṃ vuccati, bhikkhave, lābhānuttariyaṃ. Iti dassanānuttariyaṃ,
savanānuttariyaṃ, lābhānuttariyaṃ.
‘‘Sikkhānuttariyañca kathaṃ hoti? Idha, bhikkhave, ekacco hatthismimpi
sikkhati, assasmimpi sikkhati, rathasmimpi sikkhati, dhanusmimpi
sikkhati, tharusmimpi sikkhati, uccāvacaṃ vā pana sikkhati, samaṇassa vā
brāhmaṇassa vā micchādiṭṭhikassa micchāpaṭipannassa [micchāpaṭipattiṃ
(ka.)] sikkhati.
Atthesā, bhikkhave, sikkhā; nesā natthīti vadāmi.
Sā ca kho esā, bhikkhave, sikkhā hīnā gammā pothujjanikā anariyā
anatthasaṃhitā, na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na
abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattati. Yo ca kho, bhikkhave,
tathāgatappavedite dhammavinaye adhisīlampi sikkhati, adhicittampi
sikkhati, adhipaññampi sikkhati niviṭṭhasaddho niviṭṭhapemo ekantagato
abhippasanno, etadānuttariyaṃ, bhikkhave, sikkhānaṃ sattānaṃ visuddhiyā
sokaparidevānaṃ samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa
adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya , yadidaṃ
tathāgatappavedite dhammavinaye adhisīlampi sikkhati, adhicittampi
sikkhati, adhipaññampi sikkhati, niviṭṭhasaddho niviṭṭhapemo ekantagato
abhippasanno. Idaṃ vuccati, bhikkhave, sikkhānuttariyaṃ. Iti
dassanānuttariyaṃ, savanānuttariyaṃ, lābhānuttariyaṃ, sikkhānuttariyaṃ.
‘‘Pāricariyānuttariyañca kathaṃ hoti? Idha, bhikkhave, ekacco
khattiyampi paricarati, brāhmaṇampi paricarati, gahapatimpi paricarati,
uccāvacaṃ vā pana paricarati, samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā micchādiṭṭhikaṃ
micchāpaṭipannaṃ paricarati. Atthesā, bhikkhave, pāricariyā; nesā
natthīti vadāmi. Sā ca kho esā, bhikkhave,
pāricariyā hīnā gammā pothujjanikā anariyā anatthasaṃhitā, na
nibbidāya…pe… na nibbānāya saṃvattati. Yo ca kho, bhikkhave, tathāgataṃ
vā tathāgatasāvakaṃ vā paricarati niviṭṭhasaddho niviṭṭhapemo ekantagato
abhippasanno , etadānuttariyaṃ, bhikkhave,
pāricariyānaṃ sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya
dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya
nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ tathāgataṃ vā tathāgatasāvakaṃ vā
paricarati niviṭṭhasaddho niviṭṭhapemo ekantagato abhippasanno. Idaṃ
vuccati, bhikkhave, pāricariyānuttariyaṃ. Iti dassanānuttariyaṃ,
savanānuttariyaṃ, lābhānuttariyaṃ, sikkhānuttariyaṃ,
pāricariyānuttariyaṃ.
‘‘Anussatānuttariyañca kathaṃ hoti? Idha, bhikkhave, ekacco
puttalābhampi anussarati, dāralābhampi anussarati, dhanalābhampi
anussarati, uccāvacaṃ vā pana lābhaṃ anussarati, samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā
micchādiṭṭhikaṃ micchāpaṭipannaṃ anussarati. Atthesā, bhikkhave,
anussati; nesā natthīti vadāmi. Sā ca kho esā, bhikkhave, anussati hīnā
gammā pothujjanikā anariyā anatthasaṃhitā, na nibbidāya na virāgāya na
nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya
saṃvattati. Yo ca kho, bhikkhave, tathāgataṃ vā tathāgatasāvakaṃ
vā anussarati niviṭṭhasaddho niviṭṭhapemo ekantagato abhippasanno,
etadānuttariyaṃ, bhikkhave, anussatīnaṃ sattānaṃ visuddhiyā
sokaparidevānaṃ samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa
adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ tathāgataṃ vā
tathāgatasāvakaṃ vā anussarati niviṭṭhasaddho niviṭṭhapemo ekantagato
abhippasanno. Idaṃ vuccati, bhikkhave, anussatānuttariyaṃ. Imāni kho,
bhikkhave, cha anuttariyānī’’ti.
‘‘Ye dassanānuttaraṃ laddhā [ye dassanavaraṃ laddhā (sī. pī.), dassanānuttariyaṃ laddhā (syā.
kaṃ.)], savanañca anuttaraṃ;
Lābhānuttariyaṃ laddhā, sikkhānuttariye ratā [anuttariyaṃ
tathā (ka.)].
‘‘Upaṭṭhitā pāricariyā,
bhāvayanti anussatiṃ;
Vivekappaṭisaṃyuttaṃ, khemaṃ amatagāminiṃ.
‘‘Appamāde pamuditā,
nipakā sīlasaṃvutā;
Te
ve kālena paccenti [paccanti
(syā. ka.)], yattha dukkhaṃ nirujjhatī’’ti. dasamaṃ;
|
10. Anuttariyasuttavaṇṇanā
30.
Dasame uccāvacanti
yaṃ kiñci mahantakhuddakaṃ, uccanīcaṃ vā. Hīnanti
nihīnaṃ. Gammanti
gāmavāsikānaṃ dassanaṃ. Pothujjanikanti puthujjanānaṃ santakaṃ. Anariyanti
na ariyaṃ na uttamaṃ na parisuddhaṃ. Anatthasaṃhitanti
na atthasannissitaṃ. Na nibbidāyāti na vaṭṭe nibbindanatthāya. Na
virāgāyāti na rāgādīnaṃ virajjanatthāya. Na nirodhāyāti na rāgādīnaṃ appavattinirodhāya. Na
upasamāyāti na rāgādīnaṃ vūpasamanatthāya. Na abhiññāyāti na abhijānanatthāya. Na
sambodhāyāti na sambodhisaṅkhātassa catumaggañāṇassa
paṭivijjhanatthāya. Na
nibbānāyāti na nibbānassa sacchikiriyāya.
Niviṭṭhasaddhoti
patiṭṭhitasaddho. Niviṭṭhapemoti patiṭṭhitapemo. Ekantagatoti
ekantaṃ gato, acalappattoti attho. Abhippasannoti
ativiya pasanno. Etadānuttariyanti
etaṃ anuttaraṃ. Hatthismimpi
sikkhatīti hatthinimittaṃ sikkhitabbaṃ
hatthisippaṃ sikkhati. Sesapadesupi eseva nayo. Uccāvacanti
mahantakhuddakaṃ sippaṃ sikkhati.
Upaṭṭhitā pāricariyeti
pāricariyāya paccupaṭṭhitā. Bhāvayanti anussatinti anuttaraṃ anussatiṃ bhāventi. Vivekappaṭisaṃyuttanti
nibbānanissitaṃ katvā. Khemanti nirupaddavaṃ. Amatagāminanti
nibbānagāminaṃ, ariyamaggaṃ bhāventīti attho. Appamāde
pamoditāti satiyā avippavāsasaṅkhāte appamāde āmoditā
pamoditā. Nipakāti
nepakkena samannāgatā. Sīlasaṃvutāti
sīlena saṃvutā pihitā. Te ve kālena paccentīti te ve yuttappayuttakāle jānanti. Yattha
dukkhaṃ nirujjhatīti yasmiṃ ṭhāne sakalaṃ vaṭṭadukkhaṃ
nirujjhati, taṃ amataṃ mahānibbānaṃ te bhikkhū jānantīti. Imasmiṃ sutte
cha anuttariyāni missakāni kathitānīti.
|
(X) (30) Trên Tất Cả
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp vô thượng này. Thế nào là sáu?
2. Thấy vô thượng, nghe vô thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô thượng,
phục vụ vô thượng, tùy niệm vô thượng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
thấy vô thượng?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đi xem voi báu, đi xem ngựa báu, đi
xem châu báu, hay đi xem các vật lớn nhỏ, hay đi xem Sa-môn, hay
Bà-la-môn có tà kiến, có tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây có phải là thấy
không? Ta nói rằng: Đây là không thấy". Sự thấy ấy, này các Tỷ-kheo, là
hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên hệ
đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng
trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai đi yết kiến Thế Tôn hay đệ
tử Thế Tôn, với ḷng tin an trú, với ḷng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần
tín, thời này các Tỷ-kheo, đây là thấy vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho
các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh
lư, chứng ngộ Niết-bàn, tức là đi yết kiến Như Lai hay đệ tử Như Lai,
với ḷng tin an trú, với ḷng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là thấy vô thượng, đây là thấy vô thượng. C̣n nghe
vô thượng là ǵ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đi nghe tiếng trống, đi nghe tiếng
sáo, đi nghe tiếng ca, hay đi nghe tiếng cao thấp khác nhau, hay đi nghe
pháp các Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây
có phải là nghe không? Ta nói rằng: "Đây là không nghe". Sự nghe ấy, này
các Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh,
không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai đi đến để nghe
pháp của Như Lai hay của đệ tử Như Lai, với ḷng tin an trú, với ḷng ái
mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, thời này các Tỷ-kheo, đây là sự nghe vô
thượng, đưa đến thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi,
chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lư, chứng ngộ Niết-bàn, tức là đi nghe
pháp của Như Lai hay của đệ tử Như Lai, với ḷng tin an trú, với ḷng ái
mộ an trú, nhứt hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghe vô
thượng, đây là thấy vô thượng, nghe vô thượng. C̣n lợi đắc vô thượng là
ǵ?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người được con, được vợ, được tài sản,
được các vật cao thấp khác nhau, được ḷng tin vào các Sa-môn hay
Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây có lợi đắc hay
không? Ta nói rằng: "Đây là không lợi đắc". Lợi đắc ấy, này các Tỷ-kheo,
là hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên hệ
đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng
trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai được ḷng tin vào Như Lai
hay của đệ tử Như Lai, với ḷng tin an trú, với ḷng ái mộ an trú, nhứt
hướng thuần tín, thời này các Tỷ-kheo, đây là đắc lợi vô thượng, đưa đến
thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu,
đạt được chánh lư, chứng ngộ Niết-bàn, tức là được ḷng tin vào Như Lai
hay của đệ tử Như Lai, với ḷng tin an trú, với ḷng ái mộ an trú, nhứt
hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đắc lợi vô thượng, đây là
thấy vô thượng, nghe vô thượng, đắc lợi vô thượng. C̣n học tập vô thượng
là ǵ?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người học tập về voi, học tập về ngựa, học
tập về xe, học tập về cung pháp, học tập về kiếm pháp, học tập về các
nghề cao thấp sai biệt hay học tập theo các Sa-môn hay Bà-la-môn có tà
kiến, tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây là có học tập hay không? Ta nói
rằng: "Đây là không học tập". Học tập ấy, này các Tỷ-kheo, là hạ liệt,
là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên hệ đến mục
đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai học tập Tăng thượng giới, học tập
tăng thượng định, học tập tăng thượng tuệ trong Pháp và Luật do Như Lai
tuyên thuyết, với ḷng tin an trú, với ḷng ái mộ an trú, nhứt hướng
thuần tín, này các Tỷ-kheo, đây là học tập vô thượng, đưa đến thanh tịnh
cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được
chánh lư, chứng ngộ Niết-bàn, tức là học tập Tăng thượng giới, học tập
tăng thượng định, học tập tăng thượng tuệ trong Pháp và Luật do Như Lai
tuyên thuyết, với ḷng tin an trú, với ḷng ái mộ an trú, nhứt hướng
thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là học tập vô thượng, đây là thấy vô
thượng, nghe vô thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô thượng. C̣n phục
vụ vô thượng là như thế nào?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người phục vụ Sát-đế-ly, phục vụ
Bà-la-môn, phục vụ gia chủ, phục vụ các người cao thấp sai biệt hay phục
vụ Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây là có
phục vụ hay không? Ta nói rằng: "Đây là không phục vụ". Phục vụ ấy, này
các Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh,
không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai phục vụ Như Lai
hay đệ tử Như Lai, với ḷng tin an trú, với ḷng ái mộ an trú, nhứt
hướng thuần tín, này các Tỷ-kheo, đây là phục vụ vô thượng, đưa đến
thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu,
đạt được chánh lư, chứng ngộ Niết-bàn, tức là phục vụ Như Lai hay đệ tự
Như Lai, với ḷng tin an trú, với ḷng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần
tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là phục vụ vô thượng, đây là thấy vô
thượng, nghe vô thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô thượng, phục vụ vô
thượng. Và thế nào là tùy niệm vô thượng?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tùy niệm được con, tùy niệm được vợ,
tùy niệm được tài sản, tùy niệm được cao thấp sai biệt hay phục vụ
Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây là có tùy
niệm hay không? Ta nói rằng: "Đây là không tùy niệm". Tùy niệm ấy, này
các Tỷ-kheo, là hạ liệt, là hèn hạ, là phàm phu, không xứng Thánh hạnh,
không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai tùy niệm Như
Lai hay đệ tử Như Lai, với ḷng tin an trú, với ḷng ái mộ an trú, nhứt
hướng thuần tín, này các Tỷ-kheo, tùy niệm ấy là vô thượng, đưa đến
thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu,
đạt được chánh lư, chứng ngộ Niết-bàn, tức là tùy niệm Như Lai hay đệ tử
Như Lai, với ḷng tin được an trú, với ḷng ái mộ được an trú, nhứt
hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tùy niệm vô thượng.
Này các Tỷ-kheo, có sáu tùy niệm này:
Ai được thấy tối thắng,
Và được nghe vô thượng,
Được lợi đắc vô thượng,
Vui học tập vô thượng,
An trú trong phục vụ,
Tu tập chuyên tùy niệm,
Liên hệ đến viễn ly,
Đạt an ổn, bất tử,
Hoan hỷ, không phóng dật,
Thận trọng, hộ tŕ giới,
Khi thời đă chín muồi
Đau khổ được đoạn tận.
|