CHÁNH KINH PALI
|
CHÚ GIẢI PALI
|
BẢN DỊCH VIỆT
|
Aṅguttaranikāyo
|
Aṅguttaranikāye
|
Tăng Chi Bộ
|
Chakkanipātapāḷi
|
Chakkanipāta-aṭṭhakathā
|
Chương
VI –
Sáu Pháp
|
4. Devatāvaggo
|
4. Devatāvaggo
|
IV. Phẩm Chư Thiên
|
1. Sekhasuttaṃ
31. ‘‘Chayime , bhikkhave, dhammā sekhassa
bhikkhuno parihānāya saṃvattanti. Katame cha? Kammārāmatā ,
bhassārāmatā, niddārāmatā, saṅgaṇikārāmatā, indriyesu aguttadvāratā,
bhojane amattaññutā – ime kho, bhikkhave, cha dhammā sekhassa bhikkhuno
parihānāya saṃvattanti.
‘‘Chayime, bhikkhave, dhammā sekhassa bhikkhuno aparihānāya
saṃvattanti. Katame cha? Na kammārāmatā, na bhassārāmatā, na
niddārāmatā, na saṅgaṇikārāmatā, indriyesu guttadvāratā, bhojane
mattaññutā – ime kho , bhikkhave, cha dhammā
sekhassa bhikkhuno aparihānāya saṃvattantī’’ti. Paṭhamaṃ.
|
1. Sekhasuttavaṇṇanā
31.
Catutthassa paṭhame sekhassāti
sattavidhassa sekhassa. Puthujjane pana vattabbameva natthi. Parihānāyāti
uparūpariguṇaparihānāya.
|
(I) (31) Hữu Học
1. - Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa Tỷ-kheo hữu học đến thối đọa.
Thế nào là sáu?
2. Ưa công việc, ưa nói chuyện, ưa ngủ, ưa hội chúng, các căn không
pḥng hộ, ăn uống không tiết độ.
Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa Tỷ-kheo hữu học đến thối đọa.
3. Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, không đưa Tỷ-kheo hữu học đến thối
đọa. Thế nào là sáu?
4. Không ưa công việc, không ưa nói chuyện, không ưa ngủ nghỉ, không ưa
hội chúng, các căn có pḥng hộ, ăn uống có tiết độ.
Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, không đưa Tỷ-kheo hữu học đến thối đọa.
|
2. Paṭhamaaparihānasuttaṃ
32. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā
kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā
kho sā devatā bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘Chayime, bhante, dhammā bhikkhuno aparihānāya saṃvattanti. Katame cha?
Satthugāravatā, dhammagāravatā, saṅghagāravatā, sikkhāgāravatā,
appamādagāravatā, paṭisanthāragāravatā [paṭisandhāragāravatā
(ka.)] – ime kho, bhante, cha dhammā bhikkhuno aparihānāya
saṃvattantī’’ti. Idamavoca sā devatā. Samanuñño satthā ahosi. Atha kho
sā devatā ‘‘samanuñño me satthā’’ti bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ
katvā tatthevantaradhāyi.
Atha kho bhagavā tassā
rattiyā accayena bhikkhū āmantesi – ‘‘imaṃ, bhikkhave, rattiṃ aññatarā
devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ
obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ
aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhikkhave, sā devatā maṃ etadavoca –
‘chayime, bhante, dhammā bhikkhuno aparihānāya saṃvattanti. Katame cha?
Satthugāravatā, dhammagāravatā, saṅghagāravatā, sikkhāgāravatā,
appamādagāravatā, paṭisanthāragāravatā – ime kho,
bhante, cha dhammā bhikkhuno aparihānāya saṃvattantī’ti. Idamavoca,
bhikkhave, sā devatā. Idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā
tatthevantaradhāyī’’ti.
‘‘Satthugaru dhammagaru,
saṅghe ca tibbagāravo;
Appamādagaru bhikkhu,
paṭisanthāragāravo;
Abhabbo parihānāya,
nibbānasseva santike’’ti. dutiyaṃ;
|
2-3. Aparihānasuttadvayavaṇṇanā
32-33. Dutiye satthugāravatāti
satthari garubhāvo. Dhammagāravatāti
navavidhe lokuttaradhamme garubhāvo. Saṅghagāravatāti
saṅghe garubhāvo. Sikkhāgāravatāti
tīsu sikkhāsu garubhāvo. Appamādagāravatāti appamāde garubhāvo. Paṭisanthāragāravatāti
dhammāmisavasena duvidhe paṭisanthāre garubhāvo. Satthā garu assāti satthugaru.
Dhammo garu assāti dhammagaru. Tibbagāravoti bahalagāravo. Paṭisanthāre gāravo
assāti paṭisanthāragāravo. Tatiye sappatissoti
sajeṭṭhako sagāravo. Hirottappaṃ panettha missakaṃ kathitaṃ.
|
(II) (32) Không Thối Đọa (1)
1. Rồi một Thiên nhân, sau khi đêm đă gần tàn, với dung sắc thù thắng,
chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn: "Có sáu
pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa. Thế nào là sáu?
Kính trọng Đạo Sư, kính trọng Pháp, kính trọng chúng Tăng, kính trọng
học pháp, kính trọng không phóng dật, kính trọng tiếp đón. Sáu pháp này,
bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa.
Thiên nhân ấy nói như vậy, Bậc Đạo Sư chấp nhận. Rồi Thiên nhân ấy nghĩ
rằng: "Bậc Đạo Sư đă chấp nhận ta", đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng
về Ngài rồi biến mất tại chỗ.
2. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đă qua, gọi các Tỷ-kheo:
- Đêm nay, này các Tỷ-kheo, có một Thiên nhân, sau khi đêm đă gần tàn,
với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta; sau khi
đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên, này các Tỷ-kheo, Thiên
nhân ấy nói với Ta: "Có sáu pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo
đến thối đọa. Thế nào là sáu? Kính trọng Đạo Sư, kính trọng Pháp, kính
trọng chúng Tăng, kính trọng học pháp, kính trọng không phóng dật, kính
trọng tiếp đón. Sáu pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối
đọa". Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói như vậy. Nói như vậy xong, vị
ấy đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Tỷ-kheo kính Đạo Sư,
Cung kính Pháp và Tăng,
Học pháp không phóng dật,
Cung kính nghinh tiếp đón,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết-bàn.
|
3. Dutiyaaparihānasuttaṃ
33. ‘‘Imaṃ, bhikkhave, rattiṃ aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā
abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho,
bhikkhave, sā devatā maṃ etadavoca – ‘chayime, bhante, dhammā bhikkhuno
aparihānāya saṃvattanti. Katame cha? Satthugāravatā, dhammagāravatā,
saṅghagāravatā, sikkhāgāravatā, hirigāravatā, ottappagāravatā – ime kho,
bhante, cha dhammā bhikkhuno aparihānāya saṃvattantī’ti. Idamavoca,
bhikkhave, sā devatā. Idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā
tatthevantaradhāyī’’ti.
‘‘Satthugaru dhammagaru,
saṅghe ca tibbagāravo;
Hiriottappasampanno,
sappatisso sagāravo;
Abhabbo parihānāya,
nibbānasseva santike’’ti. tatiyaṃ;
|
32-33.
Dutiye satthugāravatāti
satthari garubhāvo. Dhammagāravatāti navavidhe lokuttaradhamme garubhāvo. Saṅghagāravatāti
saṅghe garubhāvo. Sikkhāgāravatāti tīsu sikkhāsu garubhāvo. Appamādagāravatāti
appamāde garubhāvo. Paṭisanthāragāravatāti dhammāmisavasena duvidhe
paṭisanthāre garubhāvo. Satthā garu assāti satthugaru. Dhammo garu assāti dhammagaru.
Tibbagāravoti bahalagāravo. Paṭisanthāre gāravo assāti paṭisanthāragāravo.
Tatiye sappatissoti
sajeṭṭhako sagāravo. Hirottappaṃ panettha missakaṃ kathitaṃ.
|
(III) (33) Không Thối Đọa (2)
1. - Đêm nay, này các Tỷ-kheo, một Thiên nhân, sau khi đêm đă gần tàn,
với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jatavana, đi đến Ta; sau khi
đến đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên, này các Tỷ-kheo, Thiên
nhân ấy thưa với Ta: "Có sáu pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo
đến thối đọa. Thế nào là sáu? Kính trọng Đạo Sư, kính trọng Pháp, kính
trọng chúng Tăng, kính trọng học pháp, kính trọng hổ thẹn, kính trọng sợ
hăi. Sáu pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa". Này
các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói như vậy. Nói như vậy xong, vị ấy đảnh lễ
Ta, thân bên hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Cung kính bậc Đạo Sư,
Cung kính lớn Pháp Tăng,
Đầy đủ tàm và quư
Kính nhường và cung kính,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết-bàn.
|
4. Mahāmoggallānasuttaṃ
34. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati
jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho āyasmato mahāmoggallānassa
rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko
udapādi – ‘‘katamesānaṃ devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti – ‘sotāpannā nāma [sotāpannāmhā (sī.), sotāpannāmha (syā. kaṃ. pī.)] avinipātadhammā
niyatā sambodhiparāyaṇā’’’ti ? Tena kho pana
samayena tisso nāma bhikkhu adhunākālaṅkato aññataraṃ
brahmalokaṃ upapanno hoti. Tatrapi naṃ evaṃ jānanti – ‘‘tisso brahmā
mahiddhiko mahānubhāvo’’ti.
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno – seyyathāpi nāma balavā puriso
samiñjitaṃ [sammiñjitaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] vā
bāhaṃ pasāreyya pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya, evamevaṃ – jetavane
antarahito tasmiṃ brahmaloke pāturahosi. Addasā kho tisso brahmā
āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna āyasmantaṃ
mahāmoggallānaṃ etadavoca – ‘‘ehi kho, mārisa moggallāna; svāgataṃ [sāgataṃ (sī.)], mārisa moggallāna;
cirassaṃ kho, mārisa moggallāna; imaṃ pariyāyamakāsi, yadidaṃ
idhāgamanāya. Nisīda, mārisa moggallāna, idamāsanaṃ paññatta’’nti.
Nisīdi kho āyasmā mahāmoggallāno paññatte āsane. Tissopi kho brahmā
āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ
nisinnaṃ kho tissaṃ brahmānaṃ āyasmā mahāmoggallāno etadavoca –
‘‘Katamesānaṃ kho, tissa, devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti – ‘sotāpannā nāma
avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’’’ti? ‘‘Cātumahārājikānaṃ kho,
mārisa moggallāna, devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti – ‘sotāpannā nāma
avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’’’ti.
‘‘Sabbesaññeva nu kho, tissa, cātumahārājikānaṃ devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti
– ‘sotāpannā nāma avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’’’ti? ‘‘Na
kho, mārisa moggallāna, sabbesaṃ cātumahārājikānaṃ devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ
hoti – ‘sotāpannā nāma avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’ti. Ye kho
te, mārisa moggallāna, cātumahārājikā devā buddhe
aveccappasādena asamannāgatā dhamme aveccappasādena asamannāgatā saṅghe
aveccappasādena asamannāgatā ariyakantehi sīlehi asamannāgatā
na tesaṃ devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti – ‘sotāpannā nāma
avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’ti. Ye ca kho te, mārisa
moggallāna, cātumahārājikā devā buddhe aveccappasādena samannāgatā,
dhamme aveccappasādena samannāgatā, saṅghe aveccappasādena samannāgatā
ariyakantehi sīlehi samannāgatā, tesaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti – ‘sotāpannā nāma
avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’’’ti.
‘‘Cātumahārājikānaññeva nu kho, tissa, devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti –
‘sotāpannā nāma avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’ti udāhu
tāvatiṃsānampi devānaṃ…pe… yāmānampi devānaṃ… tusitānampi devānaṃ…
nimmānaratīnampi devānaṃ… paranimmitavasavattīnampi devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ
hoti – ‘sotāpannā nāma avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’’’ti?
‘‘Paranimmitavasavattīnampi kho, mārisa moggallāna, devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ
hoti – ‘sotāpannā nāma avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’’’ti.
‘‘Sabbesaññeva nu kho, tissa, paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ
hoti – ‘sotāpannā nāma avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’’’ti?
‘‘Na kho, mārisa moggallāna, sabbesaṃ paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ
evaṃ ñāṇaṃ hoti – ‘sotāpannā nāma avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’ti.
Ye kho te, mārisa moggallāna, paranimmitavasavattī devā buddhe
aveccappasādena asamannāgatā, dhamme aveccappasādena asamannāgatā,
saṅghe aveccappasādena asamannāgatā, ariyakantehi sīlehi asamannāgatā,
na tesaṃ devānaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti – ‘sotāpannā nāma avinipātadhammā
niyatā sambodhiparāyaṇā’ti. Ye ca kho te, mārisa moggallāna,
paranimmitavasavattī devā buddhe aveccappasādena samannāgatā, dhamme
aveccappasādena samannāgatā, saṅghe aveccappasādena samannāgatā,
ariyakantehi sīlehi samannāgatā tesaṃ evaṃ ñāṇaṃ hoti – ‘sotāpannā nāma
avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā’’’ti.
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno tissassa brahmuno bhāsitaṃ
abhinanditvā anumoditvā – ‘‘seyyathāpi nāma
balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya,
pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya, evamevaṃ – ‘brahmaloke antarahito
jetavane pāturahosī’’’ti. Catutthaṃ.
|
4. Mahāmoggallānasuttavaṇṇanā
34.
Catutthe tisso
nāma bhikkhūti therasseva saddhivihāriko. Mahiddhiko
mahānubhāvoti ijjhanaṭṭhena mahatī iddhi assāti
mahiddhiko. Anupharaṇaṭṭhena mahā ānubhāvo assāti mahānubhāvo. Cirassaṃ kho, mārisa moggallāna, imaṃ pariyāyamakāsīti
evarūpaṃ loke pakatiyā piyasamudāhāravacanaṃ hoti. Lokiyā hi
cirassaṃ āgatampi anāgatapubbampi manāpajātiyaṃ āgataṃ disvā ‘‘kuto
bhavaṃ āgato, cirassaṃ bhavaṃ āgato, kathaṃ te idhāgamanamaggo ñāto, kiṃ
maggamūḷhosī’’tiādīni vadanti. Ayaṃ pana āgatapubbattāyeva evamāha.
Thero hi kālena kālaṃ brahmalokaṃ gacchatiyeva. Tattha pariyāyamakāsīti
vāraṃ akāsi. Yadidaṃ
idhāgamanāyāti yo ayaṃ idhāgamanāya vāro, taṃ cirassaṃ
akāsīti vuttaṃ hoti. Idamāsanaṃ
paññattanti mahārahaṃ
brahmapallaṅkaṃ paññāpetvā evamāha. Aveccappasādenāti adhigatena acalena maggappasādena.
Imasmiṃ sutte sotāpattimaggañāṇaṃ kathitaṃ.
|
(IV) (34) Đại Mục Kiền Liên
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatth́, tại Jetavana, chỗ khu vườn ông
Anàthapindika. Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna trong khi độc cư thiền tịnh,
những suy nghĩ như sau được khởi lên: "Có bao nhiêu chư Thiên có trí như
sau: 'Ta là bậc Dự lưu, không c̣n bị đọa lạc, quyết chắc đạt được giác
ngộ?' "
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo Tissa mệnh chung không bao lâu, được lên một Phạm
thiên giới. Tại đấy, họ biết vị ấy là: "Phạm thiên Tissa, có đại thần
lực, có đại uy lực".
2. Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna, ví như người lực sĩ duỗi bàn tay đang co
lại hay co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy biến mất ở Jetavana và
hiện ra ở Phạm thiên giới ấy. Phạm thiên Tissa thấy Tôn giả Mahà
Moggallàna từ xa đi đến; sau khi thấy, nói Tôn giả Mahà Moggallàna:
- Hăy đến, bạn Moggallàna! Thiện lai, bạn Moggallàna! Đă lâu, bạn
Moggallàna, mới tạo cơ hội này, tức là đến đây. Này bạn Moggallàna, hăy
ngồi trên chỗ đă soạn này!
Tôn giả Mahà Moggalàna ngồi xuống trên chỗ đă soạn sẵn. Phạm thiên Tissa
đảnh lễ Tôn giả Mahà Moggallàna, rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Mahà
Moggallàna nói với Phạm thiên đang ngồi một bên:
- Có bao nhiêu Thiện nhân, này Tissa, có trí như sau: "Chúng ta là bậc
Dự lưu, không c̣n bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ"?
- Này bạn Moggallàna, bốn Thiên vương có trí như sau: "Chúng ta là bậc
Dự lưu, không c̣n bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ".
- Này Tissa, có phải tất cả Bốn Thiên vương đều có trí như sau: "Chúng
ta là bậc Dự lưu, không c̣n bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ"?
- Này bạn Moggallàna, không phải tất cả Bốn Thiên vương đều có trí như
sau: "Chúng ta là bậc Dự lưu, không c̣n bị đọa lạc, quyết chắc đạt đến
giác ngộ". Này bạn Moggallana, Bốn Thiên vương nào không thành tựu ḷng
tịnh tín bất động đối với đức Phật, không thành tựu ḷng tịnh tín bất
động đối với Pháp, không thành tựu ḷng tịnh tín bất động đối với Tăng,
không thành tựu các Giới Luật được các bậc Thánh ái kính, Bốn Thiên
vương ấy không có trí như sau: "Chúng ta là bậc Dự lưu không c̣n bị thối
đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ". Và này bạn Moggallàna, Bốn Thiên
vương nào thành tựu ḷng tịnh tín bất động đối với Phật, thành tựu ḷng
tịnh tín đối với Pháp, thành tựu ḷng tịnh tín bất động đối với Tăng,
thành tựu ḷng tịnh tín bất động đối với các Giới được bậc trí ái kính,
Bốn Thiên vương ấy có trí như sau: "Chúng ta là bậc Dự lưu, không c̣n bị
thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ".
- Này Tissa, có phải chỉ có Bốn Thiên vương mới có trí như sau: "Chúng
ta là bậc Dự lưu, không c̣n bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ",
hay các chư thiên ở cơi trời Ba mươi ba... hay các chư Thiên Dạ-ma...
hay các chư Thiên ở cơi Tusità (Đâu-suất)... hay chư thiên Hóa lạc hay
chư Thiên Tha Hóa Tự tại... cũng có trí như sau: "Chúng ta là bậc Dự
lưu, không c̣n bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ"?
- Này bạn Moggallàna, chư Thiên Tha hóa Tự tại có trí như sau: "Chúng ta
là bậc Dự lưu, không c̣n bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ".
- Này Tissa, có phải tất cả chư Thiên Tha hóa Tự tại đều có trí như sau:
"Chúng ta là bậc Dự lưu, không c̣n bị đọa lạc, quyết chắc đạt đến giác
ngộ"?
- Này bạn Moggallàna, không phải tất cả chư Thiên Tha hóa Tự tại đều có
trí như sau: "Chúng ta là bậc Dự lưu, không c̣n bị thối đọa, quyết chắc
đạt đến giác ngộ". Này bạn Moggallàna, chư thiên Tha hóa Tự tại nào
không thành tựu ḷng tịnh tín bất động với đức Phật, không thành tựu
ḷng tịnh tín bất động đối với Pháp, không thành tựu ḷng tịnh tín bất
động đối với Tăng, không thành tựu ḷng tịnh tín bất động đối với các
Giới được các bậc Thánh ái kính, các chư Thiên ấy không có trí như sau:
"Chúng ta là bậc Dự lưu, không c̣n bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác
ngộ". Và này bạn Moggallàna, chư thiên Tha hóa Tự tại nào thành tựu ḷng
tịnh tín bất động đối với đức Phật, thành tựu ḷng tịnh tín bất động đối
với Pháp, thành tựu ḷng tịnh tín bất động đối với Tăng, thành tựu các
Giới được các bậc Thánh ái kính, chỉ những chư Thiên ấy mới có trí như
sau: "Chúng ta là bậc Dự lưu, không c̣n bị thối đọa, quyết chắc đạt đến
giác ngộ".
3. Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna sau khi hoan hỷ tín thọ lời nói của Phạm
thiên Tissa, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại
cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy, biến mất tại Phạm thiên giới và hiện ra
tại Jetavana.
|
5. Vijjābhāgiyasuttaṃ
35. ‘‘Chayime , bhikkhave, dhammā
vijjābhāgiyā. Katame cha? Aniccasaññā, anicce dukkhasaññā, dukkhe
anattasaññā, pahānasaññā, virāgasaññā, nirodhasaññā – ime kho,
bhikkhave, cha dhammā vijjābhāgiyā’’ti. Pañcamaṃ.
|
5. Vijjābhāgiyasuttavaṇṇanā
35.
Pañcame vijjābhāgiyāti
vijjākoṭṭhāsikā. Aniccasaññāti
aniccānupassanāñāṇe uppannasaññā. Anicce
dukkhasaññāti dukkhānupassanāñāṇe uppannasaññā. Dukkhe
anattasaññāti anattānupassanāñāṇe uppannasaññā. Pahānasaññāti
pahānānupassanāñāṇe uppannasaññā. Virāgasaññāti
virāgānupassanāñāṇe uppannasaññā. Nirodhasaññāti
nirodhānupassanāñāṇe uppannasaññā.
|
(V) (35) Minh Phần
1. - Có sáu pháp này thuộc về minh phần. Thế nào là sáu?
2. Tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô ngă trong khổ,
tưởng đoạn tận, tưởng ly tham, tưởng đoạn diệt.
Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, là thuộc về minh phần.
|
6. Vivādamūlasuttaṃ
36.[dī. ni. 3.325; ma. ni.
3.44; cūḷava. 216] ‘‘Chayimāni,
bhikkhave, vivādamūlāni. Katamāni cha? Idha, bhikkhave, bhikkhu kodhano
hoti upanāhī. Yo so, bhikkhave, bhikkhu kodhano hoti upanāhī so
sattharipi agāravo viharati appatisso, dhammepi agāravo viharati
appatisso, saṅghepi agāravo viharati appatisso, sikkhāyapi na
paripūrakārī hoti. Yo so, bhikkhave, bhikkhu satthari agāravo viharati
appatisso, dhamme agāravo viharati appatisso, saṅghe agāravo viharati
appatisso, sikkhāya na paripūrakārī so saṅghe vivādaṃ janeti, yo hoti
vivādo bahujanāhitāya bahujanāsukhāya bahuno janassa anatthāya ahitāya
dukkhāya devamanussānaṃ. Evarūpaṃ ce tumhe, bhikkhave, vivādamūlaṃ
ajjhattaṃ vā bahiddhā vā samanupasseyyātha. Tatra tumhe, bhikkhave,
tasseva pāpakassa vivādamūlassa pahānāya vāyameyyātha. Evarūpaṃ ce
tumhe, bhikkhave, vivādamūlaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā na
samanupasseyyātha, tatra tumhe, bhikkhave, tasseva pāpakassa
vivādamūlassa āyatiṃ anavassavāya paṭipajjeyyātha.
Evametassa pāpakassa vivādamūlassa pahānaṃ hoti. Evametassa pāpakassa
vivādamūlassa āyatiṃ anavassavo hoti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu makkhī hoti paḷāsī…pe… issukī hoti
maccharī… saṭho hoti māyāvī… pāpiccho hoti micchādiṭṭhi…
sandiṭṭhiparāmāsī hoti ādhānaggāhīduppaṭinissaggī.
Yo so, bhikkhave, bhikkhu sandiṭṭhiparāmāsī hoti ādhānaggāhī
duppaṭinissaggī, so sattharipi agāravo viharati appatisso, dhammepi
agāravo viharati appatisso, saṅghepi agāravo viharati appatisso,
sikkhāyapi na paripūrakārī hoti. Yo so, bhikkhave, bhikkhu satthari
agāravo viharati appatisso, dhamme…pe… saṅghe
agāravo viharati appatisso, sikkhāya na paripūrakārī, so saṅghe vivādaṃ
janeti, yo hoti vivādo bahujanāhitāya bahujanāsukhāya
bahuno janassa anatthāya ahitāya dukkhāya devamanussānaṃ. Evarūpaṃ ce
tumhe, bhikkhave, vivādamūlaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā
samanupasseyyātha. Tatra tumhe, bhikkhave, tasseva pāpakassa
vivādamūlassa pahānāya vāyameyyātha. Evarūpaṃ ce tumhe, bhikkhave,
vivādamūlaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā na samanupasseyyātha. Tatra tumhe,
bhikkhave, tasseva pāpakassa vivādamūlassa āyatiṃ anavassavāya
paṭipajjeyyātha. Evametassa pāpakassa vivādamūlassa pahānaṃ hoti.
Evametassa pāpakassa vivādamūlassa āyatiṃ anavassavo hoti. Imāni kho,
bhikkhave, cha vivādamūlānī’’ti. Chaṭṭhaṃ.
|
6. Vivādamūlasuttavaṇṇanā
36.
Chaṭṭhe vivādamūlānīti
vivādassa mūlāni. Kodhanoti kujjhanalakkhaṇena kodhena samannāgato. Upanāhīti
veraappaṭinissaggalakkhaṇena upanāhena samannāgato. Ahitāya
dukkhāya devamanussānanti dvinnaṃ bhikkhūnaṃ vivādo kathaṃ
devamanussānaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattati? Kosambakakkhandhake viya
dvīsu bhikkhūsu vivādaṃ āpannesu tasmiṃ vihāre tesaṃ antevāsikā
vivadanti, tesaṃ ovādaṃ gaṇhanto bhikkhunisaṅgho vivadati. Tato tesaṃ
upaṭṭhākā vivadanti, atha manussānaṃ ārakkhadevatā dve
koṭṭhāsā honti. Tathā dhammavādīnaṃ ārakkhadevatā dhammavādiniyo honti,
adhammavādīnaṃ adhammavādiniyo. Tato ārakkhadevatānaṃ mittā bhummadevatā
bhijjanti. Evaṃ paramparāya yāva brahmalokā ṭhapetvā ariyasāvake sabbe
devamanussā dve koṭṭhāsā honti. Dhammavādīhi pana adhammavādinova
bahutarā honti. Tato yaṃ bahukehi gahitaṃ, taṃ gacchanti. Dhammaṃ
vissajjetvā bahutarāva adhammaṃ gaṇhanti. Te adhammaṃ purakkhatvā
viharantā apāye nibbattanti. Evaṃ dvinnaṃ bhikkhūnaṃ vivādo
devamanussānaṃ ahitāya dukkhāya hoti. Ajjhattaṃ vāti tumhākaṃ abbhantaraparisāya. Bahiddhāti
paresaṃ parisāya.
Makkhīti
paresaṃ guṇamakkhanalakkhaṇena makkhena samannāgato. Paḷāsīti
yugaggāhalakkhaṇena paḷāsena samannāgato. Issukīti
parassa sakkārādīni issāyanalakkhaṇāya issāya samannāgato. Maccharīti
āvāsamacchariyādīhi samannāgato. Saṭhoti kerāṭiko. Māyāvīti
katapaṭicchādako. Pāpicchoti asantasambhāvanicchako dussīlo. Micchādiṭṭhīti
natthikavādī, ahetuvādī, akiriyavādī. Sandiṭṭhiparāmāsīti
sayaṃ diṭṭhameva parāmasati. Ādhānaggāhīti daḷhaggāhī. Duppaṭinissaggīti
na sakkā hoti gahitaṃ vissajjāpetuṃ. Imasmiṃ sutte vaṭṭameva kathitaṃ.
|
(VI) (36) Gốc Rễ Của Đấu Tranh
1. - Có sáu gốc rễ đấu tranh này, này các Tỷ-kheo. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo phẫn nộ và hiềm hận.
Này các Tỷ-kheo, ở đây, vị Tỷ-kheo phẫn nộ, hiềm hận. Này các Tỷ-kheo,
ai phẫn nộ, hiềm hận, vị ấy sống không cung kính, không tùy thuận bậc
Đạo Sư, sống không cung kính, không tùy thuận Pháp, sống không cung
kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các Học pháp. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo Sư, không
cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng,
không thành tựu đầy đủ các Học pháp, vị ấy khởi lên tranh luận giữa chư
Tăng. Tranh luận như vậy khiến nhiều người không hạnh phúc, khiến nhiều
người không an lạc, khiến nhiều người không lợi ích, khiến chư Thiên và
loài Người không hạnh phúc và đau khổ. Này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy
thấy ác tranh căn ấy giữa các Thầy hay ngoài các Thầy, này các Tỷ-kheo,
các Thầy phải cố gắng đoạn trừ ác tranh căn ấy. Này các Tỷ-kheo, nếu các
Thầy không thấy ác tranh căn ấy giữa các Thầy hay ngoài các Thấy, này
các Tỷ kheo, các Thầy hăy tác động đừng cho ác tranh căn ấy có cơ hội
làm hại trong tương lai. Như vậy là đoạn tận ác tranh căn ấy. Như vậy là
ngăn chận nguy hại ác tránh căn ấy trong tương lai.
3. Này các Tỷ-kheo, lại nữa, vị Tỷ-kheo giả dối và năo hại... tật đố và
xan tham... lừa đảo và man trá... ác dục và tà kiến... chấp trước sở
kiến, kiên tŕ ǵn giữ, rất khó rời bỏ. Này các Hiền giả, Tỷ-kheo chấp
trước sở kiến, kiên tŕ ǵn giữ, rất khó rời bỏ, vị ấy sống không cung
kính, không tùy thuận bậc đạo Sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp,
không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các Học
pháp. Này các Hiền giả, Tỷ-kheo không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo
Sư... Pháp... Tăng... không thành tựu đầy đủ các Học pháp, vị ấy khởi
lên tranh luận giữa chư Tăng. Tranh luận như vậy khiến nhiều người không
hạnh phúc, khiến nhiều người không an lạc, khiến nhiều người không ích
lợi, khiến chư Thiên và loài Người không hạnh phúc và đau khổ. Này các
Tỷ-kheo, nếu các Thầy thấy được ác tranh căn ấy giữa các Thầy hay ngoài
các Thầy, các Thầy phải cố gắng đoạn trừ ác tranh căn ấy. Này các
Tỷ-kheo, nếu các Thầy không thấy ác tranh căn ấy giữa các Thầy hay ngoài
các Thầy, các Thầy hăy ǵn giữ đừng cho ác tranh căn ấy có cơ hội làm
hại trong tương lai. Như vậy là sự đoạn tận ác tránh căn ấy. Như vậy là
ngăn chặn nguy hại ác tranh căn ấy trong tương lai.
Này các Tỷ-kheo, đây là sáu tranh căn.
|
7. Chaḷaṅgadānasuttaṃ
37. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati
jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena veḷukaṇḍakī [veḷukaṇḍakiyā (a. ni.
7.53; 2.134; saṃ. ni. 2.173)]nandamātā upāsikā sāriputtamoggallānappamukhe bhikkhusaṅghe
chaḷaṅgasamannāgataṃ dakkhiṇaṃ patiṭṭhāpeti. Addasā kho bhagavā dibbena
cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena veḷukaṇḍakiṃ nandamātaraṃ
upāsikaṃ sāriputtamoggallānappamukhe bhikkhusaṅghe chaḷaṅgasamannāgataṃ
dakkhiṇaṃ patiṭṭhāpentiṃ. Disvā bhikkhū āmantesi – ‘‘esā, bhikkhave,
veḷukaṇḍakī nandamātā upāsikā sāriputtamoggallānappamukhe bhikkhusaṅghe
chaḷaṅgasamannāgataṃ dakkhiṇaṃ patiṭṭhāpeti’’.
‘‘Kathañca, bhikkhave, chaḷaṅgasamannāgatā dakkhiṇā hoti? Idha,
bhikkhave , dāyakassa tīṇaṅgāni honti,
paṭiggāhakānaṃ tīṇaṅgāni. Katamāni dāyakassa tīṇaṅgāni? Idha, bhikkhave,
dāyako pubbeva dānā sumano hoti, dadaṃ cittaṃ pasādeti, datvā attamano
hoti. Imāni dāyakassa tīṇaṅgāni.
‘‘Katamāni paṭiggāhakānaṃ tīṇaṅgāni? Idha,
bhikkhave, paṭiggāhakā vītarāgā vā honti rāgavinayāya vā paṭipannā,
vītadosā vā honti dosavinayāya vā paṭipannā, vītamohā vā honti
mohavinayāya vā paṭipannā. Imāni paṭiggāhakānaṃ tīṇaṅgāni. Iti dāyakassa
tīṇaṅgāni, paṭiggāhakānaṃ tīṇaṅgāni. Evaṃ kho, bhikkhave,
chaḷaṅgasamannāgatā dakkhiṇā hoti.
‘‘Evaṃ chaḷaṅgasamannāgatāya, bhikkhave,
dakkhiṇāya na sukaraṃ puññassa pamāṇaṃ gahetuṃ – ‘ettako puññābhisando
kusalābhisando sukhassāhāro sovaggiko sukhavipāko saggasaṃvattaniko
iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya sukhāya saṃvattatī’ti. Atha kho
asaṅkhyeyyo [asaṅkheyyo
(sī. syā. kaṃ. pī.)] appameyyo mahāpuññakkhandhotveva saṅkhaṃ gacchati.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, mahāsamudde na sukaraṃ udakassa pamāṇaṃ gahetuṃ
– ‘ettakāni udakāḷhakānīti vā ettakāni udakāḷhakasatānīti vā ettakāni
udakāḷhakasahassānīti vā ettakāni udakāḷhakasatasahassānī’ti vā. Atha
kho asaṅkhyeyyo appameyyo mahāudakakkhandhotveva saṅkhaṃ gacchati.
Evamevaṃ kho, bhikkhave, evaṃ chaḷaṅgasamannāgatāya dakkhiṇāya na
sukaraṃ puññassa pamāṇaṃ gahetuṃ – ‘ettako puññābhisando kusalābhisando
sukhassāhāro sovaggiko sukhavipāko saggasaṃvattaniko iṭṭhāya kantāya
manāpāya hitāya sukhāya saṃvattatī’ti. Atha kho
asaṅkhyeyyo appameyyo mahāpuññakkhandhotveva saṅkhaṃ gacchatī’’ti.
[pe. va. 305 petavatthumhipi] ‘‘Pubbeva dānā sumano, dadaṃ cittaṃ pasādaye;
Datvā attamano hoti, esā yaññassa [puññassa (ka.)] sampadā.
‘‘Vītarāgā [vītarāgo
(syā. kaṃ. ka.) evaṃ anantarapadattayepi] vītadosā,
vītamohā anāsavā;
Khettaṃ yaññassa sampannaṃ, saññatā brahmacārayo [brahmacārino
(syā. kaṃ.)].
‘‘Sayaṃ ācamayitvāna,
datvā sakehi pāṇibhi;
Attano parato ceso, yañño hoti mahapphalo.
[a. ni. 4.40] ‘‘Evaṃ yajitvā
medhāvī, saddho muttena cetasā;
Abyāpajjaṃ sukhaṃ lokaṃ, paṇḍito upapajjatī’’ti. sattamaṃ;
|
7. Dānasuttavaṇṇanā
37.
Sattame veḷukaṇḍakīti
veḷukaṇḍakanagaravāsinī. Chaḷaṅgasamannāgatanti chahi guṇaṅgehi samannāgataṃ. Dakkhiṇaṃ
patiṭṭhāpetīti dānaṃ deti. Pubbeva
dānā sumanoti dānaṃ dassāmīti māsaḍḍhamāsato paṭṭhāya somanassappatto
hoti. Ettha hi pubbecetanā dassāmīti cittuppādakālato paṭṭhāya ‘‘ito
uṭṭhitena dānaṃ dassāmī’’ti khettaggahaṇaṃ ādiṃ katvā cintentassa
labbhati. Dadaṃ
cittaṃ pasādetīti evaṃ vuttā muñcacetanā pana dānakāleyeva
labbhati. Datvā
attamano hotīti ayaṃ pana aparacetanā aparāparaṃ
anussarantassa labbhati. Vītarāgāti
vigatarāgā khīṇāsavā. Rāgavinayāya vā paṭipannāti rāgavinayapaṭipadaṃ paṭipannā.
Ukkaṭṭhadesanā cesā, na kevalaṃ pana khīṇāsavānaṃ,
anāgāmi-sakadāgāmi-sotāpannānampi antamaso tadahupabbajitassa
bhaṇḍagāhakasāmaṇerassāpi dinnā dakkhiṇā chaḷaṅgasamannāgatāva hoti.
Sopi hi sotāpattimaggatthameva pabbajito.
Yaññassa sampadāti dānassa paripuṇṇatā. Saññatāti
sīlasaññamena saññatā. Sayaṃ
ācamayitvānāti attanāva hatthapāde dhovitvā mukhaṃ
vikkhāletvā. Sakehi
pāṇibhīti attano hatthehi. Sayehītipi pāṭho. Saddhoti
ratanattayaguṇe saddahanto. Muttena cetasāti lābhamacchariyādīhi vimuttena cittena. Abyāpajjhaṃsukhaṃ
lokanti niddukkhaṃ uḷārasukhasomanassaṃ devalokaṃ.
|
(VII) (37) Bố Thí
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatth́, tại Jetavata, khu vườn của ông
Anàthapindika. Lúc bấy giờ, mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Velukandaki
làm một thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, cầm đầu là
Sariputta và Moggallàna. Thế Tôn với thiên nhăn thanh tịnh, siêu nhân,
thấy mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Velukandaki làm một thí vật gồm có
sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, cầm đầu là Sàriputta và Moggallàna. Sau
khi thấy vậy Thế Tôn liền bảo các Tỷ-kheo:
- Có mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Velukandaki làm một thí vật gồm có
sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, cầm đầu là Sàriputta và Moggallàna. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo
Tăng?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có ba phần thuộc người bố thí và có ba phần
thuộc người nhận đồ bố thí. Thế nào là ba phần thuộc về người bố thí? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, người bố thí, trước khi bố thí, ư được vui ḷng;
trong khi bố thí, tâm được tịnh tín; sau khi bố thí, cảm thấy hoan hỷ.
Đây là ba phần của người bố thí. Thế nào là ba phần của người nhận bố
thí? Ở đây, này các Tỷ-kheo, những người nhận vật bố thí, đă được ly
tham hay đang thực hành hạnh ly tham; đă được ly sân hay đang thực hành
hạnh ly sân; đă được ly si hay đang thực hành hạnh ly si. Đây là ba phần
của những người nhận vật bố thí. Như vậy là ba phần của người bố thí và
ba phần của những người nhận được vật bố thí. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là thí vật gồm có sáu phần.
3. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thực không dễ ǵ nắm được số lượng về công
đức một thí vật gồm có sáu phần như vậy: "Có chừng ấy nguồn sanh phước,
nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục,
dẫn đến cơi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc"; v́
rằng cả khối công đức lớn được xem là vô số, vô lượng. Ví như, này các
Tỷ-kheo, trong biển lớn, thật không dễ ǵ nắm lấy một số lượng nước và
nói rằng: "Có chừng ấy thùng nước, hay có chừng ấy trăm thùng nước, hay
có chừng ấy ngàn thùng nước, hay có chừng ấy trăm ngàn thùng nước"; v́
rằng, cả khối lượng lớn nước được xem là vô số, vô lượng. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, thật không dễ ǵ để nắm được số lượng về công đức của một
thí vật gồm sáu phần như vậy: "Có chừng ấy nguồn sanh phước, nguồn sanh
thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cơi
Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc an lạc"; v́ rằng cả khối
công đức lớn được xem là vô số, vô lượng.
Trước bố thí, ư vui,
Khi bố thí, tâm tín.
Sau bố thí, hoan hỷ,
Đây lễ thí đầy đủ.
Ly tham và ly sân,
Ly si, không lậu hoặc,
Vị Phạm hạnh chế ngự
Là ruộng phước lễ thí.
Nếu tự thanh tịnh ḿnh,
Tự tay ḿnh bố thí,
Tự ḿnh đến đời sau,
Lễ thí vậy, quả lớn.
Lễ thí vậy, bậc trí,
Với tín, tâm giải thoát,
Không hận thù, an lạc,
Bậc Hiền sanh ở đời.
|
8. Attakārīsuttaṃ
38. Atha kho aññataro brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ
vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so brāhmaṇo
bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ahañhi, bho gotama,
evaṃvādī evaṃdiṭṭhi – ‘natthi attakāro, natthi parakāro’’’ti. ‘‘Māhaṃ,
brāhmaṇa, evaṃvādiṃ evaṃdiṭṭhiṃ addasaṃ vā assosiṃ vā. Kathañhi nāma sayaṃ
abhikkamanto, sayaṃ paṭikkamanto evaṃ vakkhati – ‘natthi attakāro,
natthi parakāro’’’ti!
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, brāhmaṇa, atthi ārabbhadhātū’’ti? ‘‘Evaṃ, bho’’.
‘‘Ārabbhadhātuyā sati ārabbhavanto sattā paññāyantī’’ti? ‘‘Evaṃ, bho’’.
‘‘Yaṃ kho, brāhmaṇa, ārabbhadhātuyā sati ārabbhavanto sattā paññāyanti,
ayaṃ sattānaṃ attakāro ayaṃ parakāro’’.
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, brāhmaṇa, atthi nikkamadhātu…pe… atthi
parakkamadhātu… atthi thāmadhātu… atthi ṭhitidhātu… atthi
upakkamadhātū’’ti? ‘‘Evaṃ, bho’’. ‘‘Upakkamadhātuyā sati upakkamavanto
sattā paññāyantī’’ti? ‘‘Evaṃ, bho’’. ‘‘Yaṃ kho, brāhmaṇa,
upakkamadhātuyā sati upakkamavanto sattā paññāyanti, ayaṃ sattānaṃ attakāro
ayaṃ parakāro’’.
‘‘Māhaṃ, brāhmaṇa [taṃ kiṃ maññasi
brāhmaṇa māhaṃ (ka.)],
evaṃvādiṃ evaṃdiṭṭhiṃ addasaṃ vā assosiṃ vā. Kathañhi nāma sayaṃ
abhikkamanto sayaṃ paṭikkamanto evaṃ vakkhati – ‘natthi attakāro natthi
parakāro’’’ti.
‘‘Abhikkantaṃ, bho gotama…pe… ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti!
Aṭṭhamaṃ.
9. Nidānasuttaṃ
39. ‘‘Tīṇimāni , bhikkhave, nidānāni kammānaṃ
samudayāya. Katamāni tīṇi? Lobho nidānaṃ kammānaṃ samudayāya, doso
nidānaṃ kammānaṃ samudayāya, moho nidānaṃ kammānaṃ samudayāya. Na,
bhikkhave, lobhā alobho samudeti; atha kho, bhikkhave, lobhā lobhova
samudeti. Na, bhikkhave, dosā adoso samudeti; atha kho, bhikkhave, dosā
dosova samudeti. Na, bhikkhave, mohā amoho samudeti; atha kho,
bhikkhave, mohā mohova samudeti. Na, bhikkhave, lobhajena kammena
dosajena kammena mohajena kammena devā paññāyanti, manussā paññāyanti,
yā vā panaññāpi kāci sugatiyo. Atha kho, bhikkhave, lobhajena kammena
dosajena kammena mohajena kammena nirayo paññāyati
tiracchānayoni paññāyati pettivisayo paññāyati, yā vā panaññāpi kāci
duggatiyo. Imāni kho, bhikkhave, tīṇi nidānāni
kammānaṃ samudayāya.
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, nidānāni kammānaṃ samudayāya. Katamāni tīṇi?
Alobho nidānaṃ kammānaṃ samudayāya, adoso nidānaṃ kammānaṃ samudayāya,
amoho nidānaṃ kammānaṃ samudayāya. Na, bhikkhave, alobhā lobho samudeti;
atha kho, bhikkhave, alobhā alobhova samudeti. Na, bhikkhave, adosā doso
samudeti; atha kho, bhikkhave, adosā adosova samudeti. Na, bhikkhave,
amohā moho samudeti; atha kho, bhikkhave, amohā amohova samudeti. Na,
bhikkhave, alobhajena kammena adosajena kammena amohajena kammena nirayo
paññāyati tiracchānayoni paññāyati pettivisayo paññāyati, yā vā
panaññāpi kāci duggatiyo. Atha kho, bhikkhave, alobhajena kammena
adosajena kammena amohajena kammena devā paññāyanti, manussā paññāyanti,
yā vā panaññāpi kāci sugatiyo. Imāni kho, bhikkhave, tīṇi nidānāni
kammānaṃ samudayāyā’’ti. Navamaṃ.
|
8. Attakārīsuttavaṇṇanā
38.
Aṭṭhame addasaṃ
vā assosiṃ vāti akkhīni ummīletvā mā addasaṃ, asukasmiṃ
nāma ṭhāne vasatīti mā assosiṃ, kathentassa vā vacanaṃ mā assosiṃ. Kathañhi
nāmāti kena nāma kāraṇena. Ārambhadhātūti ārabhanavasena pavattavīriyaṃ. Nikkamadhātūti
kosajjato nikkhamanasabhāvaṃ vīriyaṃ. Parakkamadhātūti
parakkamasabhāvo. Thāmadhātūti thāmasabhāvo. Ṭhitidhātūti
ṭhitisabhāvo. Upakkamadhātūti
upakkamasabhāvo. Sabbaṃ cetaṃ tena tenākārena pavattassa vīriyasseva
nāmaṃ.
9-10. Nidānasuttādivaṇṇanā
39-40. Navame kammānanti vaṭṭagāmikammānaṃ. Samudayāyāti
piṇḍakaraṇatthāya. Nidānanti paccayo. Lobhajenāti
lobhato jātena. Napaññāyantīti
‘‘evarūpena kammena nibbattā’’ti na dissanti. Sukkapakkhe kammānanti vivaṭṭagāmikammānaṃ. Iti imasmiṃ sutte
vaṭṭavivaṭṭaṃ kathitaṃ. Dasame niculavaneti mahāmucalindavane. Saddhammoti
sāsanasaddhammo.
|
(VIII) (38) Tự Làm
1. Rồi một vị Bà-la-môn đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn
những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói những lời chào đón hỏi thăm
thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn ấy bạch
Thế Tôn:
2. - Thưa Tôn giả Gatama, tôi nói như sau, có tri kiến như sau: "Không
có tự ḿnh làm, không có người khác làm".
- Này Bà-la-môn, Ta không bao giờ thấy, không bao giờ nghe lời nói như
vậy, tri kiến như vậy. Sao người ta có thể tự ḿnh bước tới, hay tự ḿnh
bước lui, lại có thể nói rằng: "Không có tự ḿnh làm, không có người
khác làm"? Ông nghĩ thế nào, này Bà-la-môn, có phát khởi giới hay không?
(Có vấn đề khởi sự bắt đầu không? )
- Thưa có, thưa Tôn giả.
Nếu đă có sự khởi sự, thời các loài hữu t́nh có được nêu rơ là có khởi
sự không?
- Thưa có, thưa Tôn giả.
- Này Bà-la-môn, đă có khởi sự, các loài hữu t́nh có được nêu rơ là có
khởi sự, thời đây là tự ḿnh làm, đây là người khác làm của các loài hữu
t́nh. Ông nghĩ thế nào, này Bà-la-môn, có sự khởi xuất giới... có sự
khởi nhập giới... có sự nỗ lực giới... có sự kiên tŕ giới... có sự dơng
tiến giới hay không?
- Thưa có, thưa Tôn giả.
- Này Bà-la-môn, nếu đă có sự dơng tiến giới, thời các loài hữu t́nh có
được nêu rơ có sự dơng tiến giới không?
- Thưa có, thưa Tôn giả.
- Này Bà-la-môn, đă có sự dơng tiến giới, các loài hữu t́nh có được nêu
rơ là có sự dơng tiến giới, thời đây là tự ḿnh làm, đây là người khác
làm của các loài hữu t́nh. Này Bà-la-môn, Ta không bao giờ thấy, không
bao giờ nghe nói như vậy, tri kiến như vậy. Sao người ta lại có thể tự
ḿnh bước tới, tự ḿnh bước lui lại có thể nói rằng: "Không có tự ḿnh
làm, không có người khác làm".
- Thật vi diệu thay, Thưa Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả
Gotama... Từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(IX) (39) Nhân Duyên
1. - Có ba nhân duyên này, này các Tỷ-kheo, khiến các nghiệp khởi lên.
Thế nào là ba?
2. Tham là nhân duyên khiến các nghiệp khởi lên. Sân là nhân duyên khiến
các nghiệp khởi lên. Si là nhân duyên khiến các nghiệp khởi lên. Này các
Tỷ-kheo, không phải từ tham, không tham khởi lên. Này các Tỷ-kheo, chính
từ tham, chỉ có tham khởi lên. Này các Tỷ-kheo, không phải từ sân, không
sân khởi lên. Này các Tỷ-kheo, chính từ sân, chỉ có sân khởi lên. Này
các Tỷ-kheo, không phải từ si, không si khởi lên. Này các Tỷ-kheo, chính
từ si, chỉ có si khởi lên. Này các Tỷ-kheo, không phải do nghiệp từ tham
sanh, không phải do nghiệp từ sân sanh, không phải do nghiệp từ si sanh,
chư Thiên được nêu rơ, loài Người được nêu rơ, hay những loài khác đang
ở trong thiện thú. Này các Tỷ-kheo, chính do nghiệp từ tham sanh, chính
do nghiệp từ sân sanh, chính do nghiệp từ si sanh, địa ngục được nêu rơ,
các loài bàng sanh được nêu rơ, các loại ngạ quỷ được nêu rơ, và các
loài khác đang ở trong ác thú.
Đây là ba nhân duyên, này các Tỷ-kheo, khiến các nghiệp khởi lên.
3. Có ba nhân duyên này, này các Tỷ-kheo, khiến các nghiệp khởi lên. Thế
nào là ba?
4. Không tham là nhân duyên khiến các nghiệp khởi lên, không sân là nhân
duyên khiến các nghiệp khởi lên, không si là nhân duyên khiến các nghiệp
khởi lên. Không phải từ không tham, tham khởi lên. Này các Tỷ-kheo,
chính từ không tham, chỉ có không tham khởi lên. Này các Tỷ-kheo, không
phải từ không sân, sân khởi lên. Này các Tỷ-kheo, chính từ không sân,
chỉ có không sân khởi lên. Này các Tỷ-kheo, không phải từ không si, si
khởi lên. Này các Tỷ-kheo, chính từ không si, chỉ có không si khởi lên.
Này các Tỷ-kheo, không phải do nghiệp từ không tham sanh, không phải do
nghiệp từ không sân sanh, không phải do nghiệp từ không sân sanh, địa
ngục được nêu rơ, loài bàng sanh được nêu rơ, cơi ngạ quỹ được nêu rơ,
và các loài khác đang ở trong ác thú. Nhưng này các Tỷ-kheo, chính do
nghiệp từ không tham sanh, chính do nghiệp từ không sân sanh, chính do
nghiệp từ không si sanh, chư Thiên được nêu rơ, loài Người được nêu rơ,
và các loài khác đang ở trong thiện thú.
Đây là ba nhân duyên, này các Tỷ-kheo, khiến các nghiệp khởi lên.
|
10. Kimilasuttaṃ
40. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā kimilāyaṃ viharati
niculavane. Atha kho āyasmā kimilo yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi .
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā kimilo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ko nu
kho, bhante, hetu ko paccayo yena tathāgate parinibbute saddhammo na
ciraṭṭhitiko hotī’’ti? ‘‘Idha, kimila, tathāgate parinibbute bhikkhū
bhikkhuniyo upāsakā upāsikāyo satthari agāravā viharanti appatissā,
dhamme agāravā viharanti appatissā, saṅghe agāravā
viharanti appatissā, sikkhāya agāravā viharanti appatissā, appamāde
agāravā viharanti appatissā, paṭisanthāre [paṭisandhāre
(ka.) a. ni. 5.201; 7.59] agāravā viharanti
appatissā. Ayaṃ kho, kimila, hetu ayaṃ paccayo yena tathāgate
parinibbute saddhammo na ciraṭṭhitiko hoti’’.
‘‘Ko pana, bhante, hetu ko paccayo yena tathāgate
parinibbute saddhammo ciraṭṭhitiko hotī’’ti? ‘‘Idha, kimila, tathāgate
parinibbute bhikkhū bhikkhuniyo upāsakā upāsikāyo satthari sagāravā
viharanti sappatissā, dhamme sagāravā viharanti sappatissā, saṅghe
sagāravā viharanti sappatissā, sikkhāya sagāravā viharanti sappatissā,
appamāde sagāravā viharanti sappatissā, paṭisanthāre sagāravā viharanti
sappatissā. Ayaṃ kho, kimila, hetu ayaṃ paccayo yena tathāgate
parinibbute saddhammo ciraṭṭhitiko hotī’’ti. Dasamaṃ.
|
39-40.
Navame kammānanti
vaṭṭagāmikammānaṃ. Samudayāyāti piṇḍakaraṇatthāya. Nidānanti
paccayo. Lobhajenāti
lobhato jātena. Napaññāyantīti
‘‘evarūpena kammena nibbattā’’ti na dissanti. Sukkapakkhe kammānanti
vivaṭṭagāmikammānaṃ. Iti imasmiṃ sutte vaṭṭavivaṭṭaṃ kathitaṃ. Dasame niculavaneti
mahāmucalindavane. Saddhammoti sāsanasaddhammo.
|
(X) (40) Tôn Giả Kimbila
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Kimbila, tại rừng Trúc. Rồi Tôn giả Kimbila đi
đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Kimbila bạch Thế Tôn:
2. - Bạch Thế Tôn, do nhân ǵ, do duyên ǵ, sau khi Như Lai nhập diệt,
diệu pháp không c̣n tồn tại lâu dài?
3. - Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư,
sống không cung kính, không tùy thuận Pháp; sống không cung kính, không
tùy thuận chúng Tăng; sống không cung kính, không tùy thuận học pháp;
sống không cung kính, không tùy thuận không phóng dật; sống không cung
kính, không tùy thuận tiếp đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên
khiến cho khi Như Lai nhập diệt, Diệu pháp không tồn tại lâu dài.
4. - Do nhân ǵ, do duyên ǵ khi Như Lai nhập diệt, Diệu pháp được tồn
tại lâu dài?
5. Ở đây, này Kimbila, khi Thế Tôn nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống cung kính tùy thuận bậc Đạo Sư; sống cung kính
tùy thuận Pháp; sống cung kính tùy thuận chúng Tăng; sống cung kính tùy
thuận học pháp; sống cung kính tùy thuận không phóng dật; sống cung kính
tùy thuận tiếp đón. Đây là nhân, đây là duyên, khi Như Lai nhập diệt,
Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
|
11. Dārukkhandhasuttaṃ
41. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ āyasmā sāriputto rājagahe viharati
gijjhakūṭe pabbate. Atha kho āyasmā sāriputto pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā
pattacīvaramādāya sambahulehi bhikkhūhi saddhiṃ gijjhakūṭā pabbatā
orohanto addasa aññatarasmiṃ padese mahantaṃ dārukkhandhaṃ. Disvā
bhikkhū āmantesi – ‘‘passatha no, āvuso, tumhe amuṃ mahantaṃ
dārukkhandha’’nti? ‘‘Evamāvuso’’ti.
‘‘Ākaṅkhamāno, āvuso, bhikkhu iddhimā cetovasippatto amuṃ dārukkhandhaṃ
pathavītveva adhimucceyya. Taṃ kissa hetu? Atthi,
āvuso , amumhi dārukkhandhe pathavīdhātu, yaṃ
nissāya bhikkhu iddhimā cetovasippatto amuṃ dārukkhandhaṃ pathavītveva
adhimucceyya. Ākaṅkhamāno, āvuso, bhikkhu iddhimā cetovasippatto amuṃ
dārukkhandhaṃ āpotveva adhimucceyya …pe… tejotveva
adhimucceyya… vāyotveva adhimucceyya… subhantveva adhimucceyya…
asubhantveva adhimucceyya. Taṃ kissa hetu? Atthi, āvuso, amumhi
dārukkhandhe asubhadhātu, yaṃ nissāya bhikkhu iddhimā cetovasippatto
amuṃ dārukkhandhaṃ asubhantveva adhimucceyyā’’ti. Ekādasamaṃ.
|
11. Dārukkhandhasuttavaṇṇanā
41.
Ekādasame cetovasippattoti
cittavasibhāvaṃ patto. Pathavītveva adhimucceyyāti thaddhākāraṃ pathavīdhātūti
sallakkheyya. Yaṃnissāyāti
yaṃ vijjamānaṃ thaddhākāraṃ pathavīdhātuṃ nissāya amuṃ dārukkhandhaṃ
pathavītveva adhimucceyya, sā ettha pathavīdhātu atthīti. Iminā nayena
sesapadānipi veditabbāni. Yatheva hi tasmiṃ thaddhākārā pathavīdhātu
atthi, evaṃ yūsākārā āpodhātu, uṇhākārā tejodhātu, vitthambhanākārā
vāyodhātu, rattavaṇṇamhi sāre padumapupphavaṇṇā subhadhātu, pūtibhūte
cuṇṇe ceva pheggupapaṭikāsu ca amanuññavaṇṇā asubhadhātu, taṃ nissāya
amuṃ dārukkhandhaṃ asubhantveva adhimucceyya sallakkheyyāti. Imasmiṃ
sutte missakavihāro nāma kathito.
|
(XI) (41) Đống Gỗ
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Tôn giả Sàriputta trú ở Ràjagaha, tại núi Gijjhakùta. Rồi Tôn
giả Sàriputta, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát cùng với số đông Tỷ-kheo,
từ núi Gijjhakùta đi xuống. Tôn giả thấy tại một chỗ nọ, một đống gỗ to
lớn, thấy vậy liền nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Hiền giả, các Hiền giả có thấy đống gỗ to lớn ấy không?
- Thưa Hiền giả, có thấy.
2. - Nếu muốn, này các Hiền giả, một Tỷ-kheo có thần không, đạt được tâm
tự tại có thể quán (Tập Sớ Sallakkheyya: Thắng giải, thiên về, hướng về)
đống gỗ ấy thành địa đại. V́ cớ sao? V́ rằng có địa giới trong đống gỗ
lớn ấy, y tựa theo đó, Tỷ-kheo có thần thông, đạt được tâm tự tại có thể
quán đống gỗ ấy thành địa đại.
3. Nếu muốn, này các Hiền giả, Tỷ-kheo có thần thông, đạt được tâm tự
tại, có thể quán đống gỗ lớn ấy thành nước... thành lửa... thành gió...
thành tịnh... thành bất tịnh. V́ cớ sao? V́ rằng có bất tịnh trong đống
gỗ lớn ấy, y tựa theo đó, Tỷ-kheo có thần thông, đạt được tâm tự tại, có
thể quán đống gỗ ấy thành bất tịnh.
|
12. Nāgitasuttaṃ
42. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu cārikaṃ caramāno
mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ yena icchānaṅgalaṃ nāma kosalānaṃ
brāhmaṇagāmo tadavasari. Tatra sudaṃ bhagavā icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe.
Assosuṃ kho icchānaṅgalakā brāhmaṇagahapatikā – ‘‘samaṇo khalu, bho,
gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito icchānaṅgalaṃ anuppatto
icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe. Taṃ kho pana bhavantaṃ
gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato – ‘itipi so bhagavā arahaṃ
sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno…pe… buddho bhagavā’ti. So imaṃ lokaṃ
sadevakaṃ…pe… arahataṃ dassanaṃ hotī’’ti. Atha kho icchānaṅgalakā
brāhmaṇagahapatikā tassā rattiyā accayena pahūtaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ
ādāya yena icchānaṅgalavanasaṇḍo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā
bahidvārakoṭṭhake aṭṭhaṃsu uccāsaddā mahāsaddā.
Tena kho pana samayena āyasmā nāgito bhagavato
upaṭṭhāko hoti. Atha kho bhagavā āyasmantaṃ nāgitaṃ āmantesi –
‘‘ke pana te, nāgita, uccāsaddā mahāsaddā kevaṭṭā maññe
macchavilope’’ti? ‘‘Ete, bhante, icchānaṅgalakā brāhmaṇagahapatikā
pahūtaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ ādāya bahidvārakoṭṭhake ṭhitā
bhagavantaṃyeva uddissa bhikkhusaṅghañcā’’ti. ‘‘Māhaṃ, nāgita, yasena
samāgamaṃ, mā ca mayā yaso. Yo kho, nāgita, nayimassa nekkhammasukhassa
pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī assa
akicchalābhī akasiralābhī, yassāhaṃ nekkhammasukhassa pavivekasukhassa
upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī,
so taṃ mīḷhasukhaṃ middhasukhaṃ lābhasakkārasilokasukhaṃ sādiyeyyā’’ti.
‘‘Adhivāsetu dāni, bhante, bhagavā; adhivāsetu,
sugato; adhivāsanakālo dāni, bhante, bhagavato. Yena yeneva dāni,
bhante, bhagavā gamissati, tanninnāva bhavissanti brāhmaṇagahapatikā
negamā ceva jānapadā ca. Seyyathāpi, bhante, thullaphusitake deve
vassante yathāninnaṃ udakāni pavattanti; evamevaṃ kho, bhante, yena
yeneva dāni bhagavā gamissati, tanninnāva bhavissanti brāhmaṇagahapatikā
negamā ceva jānapadā ca. Taṃ kissa hetu? Tathā hi, bhante, bhagavato
sīlapaññāṇa’’nti.
‘‘Māhaṃ, nāgita, yasena samāgamaṃ, mā ca mayā yaso. Yo kho, nāgita,
nayimassa nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa
sambodhasukhassa nikāmalābhī assa akicchalābhī
akasiralābhī, yassāhaṃ nekkhammasukhassa
pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī
akicchalābhī akasiralābhī, so taṃ mīḷhasukhaṃ middhasukhaṃ
lābhasakkārasilokasukhaṃ sādiyeyya.
‘‘Idhāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi gāmantavihāriṃ samāhitaṃ nisinnaṃ.
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti – ‘idānimaṃ āyasmantaṃ [ārāmiko vā ghaṭṭessati samaṇuddeso vā, taṃ tamhā (ka. sī. pī.)
ārāmiko vā ghaṭṭessati samaṇuddeso vā, so taṃ tamhā (ka. sī.) a. ni.
8.86 passitabbaṃ] ārāmiko vā upaṭṭhahissati samaṇuddeso vā taṃ tamhā [ārāmiko vā ghaṭṭessati samaṇuddeso vā, taṃ tamhā (ka. sī. pī.)
ārāmiko vā ghaṭṭessati samaṇuddeso vā, so taṃ tamhā (ka. sī.) a. ni.
8.86 passitabbaṃ] samādhimhā cāvessatī’ti. Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno na
attamano homi gāmantavihārena. Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi
āraññikaṃ araññe pacalāyamānaṃ nisinnaṃ. Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti
– ‘idāni ayamāyasmā imaṃ niddākilamathaṃ paṭivinodetvā araññasaññaṃyeva
manasi karissati ekatta’nti. Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno attamano
homi araññavihārena.
‘‘Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ araññe asamāhitaṃ
nisinnaṃ. Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti – ‘idāni ayamāyasmā asamāhitaṃ
vā cittaṃ samādahissati, samāhitaṃ vā cittaṃ anurakkhissatī’ti. Tenāhaṃ,
nāgita, tassa bhikkhuno attamano homi araññavihārena.
‘‘Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ araññe samāhitaṃ
nisinnaṃ. Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti – ‘idāni ayamāyasmā avimuttaṃ
vā cittaṃ vimocessati, vimuttaṃ vā cittaṃ
anurakkhissatī’ti. Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno attamano homi
araññavihārena.
‘‘Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi gāmantavihāriṃ lābhiṃ
cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ. So taṃ
lābhasakkārasilokaṃ nikāmayamāno riñcati
paṭisallānaṃ riñcati araññavanapatthāni pantāni
senāsanāni; gāmanigamarājadhāniṃ osaritvā vāsaṃ kappeti. Tenāhaṃ,
nāgita, tassa bhikkhuno na attamano homi gāmantavihārena.
‘‘Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ
lābhiṃ cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ. So
taṃ lābhasakkārasilokaṃ paṭipaṇāmetvā na riñcati paṭisallānaṃ na riñcati
araññavanapatthāni pantāni senāsanāni. Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno
attamano homi araññavihārena. Yasmāhaṃ, nāgita, samaye
addhānamaggappaṭipanno na kañci [na kiñci (sī. pī. ka.)] passāmi
purato vā pacchato vā, phāsu me, nāgita, tasmiṃ samaye hoti antamaso
uccārapassāvakammāyā’’ti. Dvādasamaṃ.
|
12. Nāgitasuttavaṇṇanā
42.
Dvādasame gāmantavihārinti
gāmantasenāsanavāsiṃ. Samāhitaṃ nisinnanti tasmiṃ gāmantasenāsane samādhiṃ
appetvā nisinnaṃ. Idānimanti idāni imaṃ. Samādhimhā
cāvessatīti samādhito uṭṭhāpessati. Na attamano homīti na sakamano homi. Pacalāyamānanti
niddāyamānaṃ. Ekattanti
ekasabhāvaṃ, ekaggatābhūtaṃ araññasaññaṃyeva citte karissatīti attho. Anurakkhissatīti
anuggaṇhissati. Avimuttaṃ
vā cittaṃ vimocessatīti aññasmiṃ kāle avimuttaṃ cittaṃ
idāni pañcahi vimuttīhi vimocayissati. Riñcatīti vajjeti vissajjeti. Paṭipaṇāmetvāti panuditvā
vissajjetvā. Uccārapassāvakammāyāti
uccārapassāvakaraṇatthāya. Iminā ettakena ṭhānena satthārā
araññasenāsanassa vaṇṇo kathito. Suttassa pana paṭhamakoṭṭhāse yaṃ
vattabbaṃ, taṃ heṭṭhā vuttamevāti.
|
(XII) (42) Tôn Giả Nagita
1. Như vậy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn đang bộ hành giữa các người Kosala, cùng với đại chúng
Tỷ-kheo đi đến một làng Bà-la-môn tên là Icchànangala. Tại đấy, Thế Tôn
trú ở Icchànangala, trong khóm rừng Icchànangala. Các Bà-la-môn gia chủ
ở Icchànangala được nghe: "Tôn giả Gotama là Thích tử, xuất gia từ gia
đ́nh họ Thích, đă đến Icchànangala, trú ở Icchànangaka trong khóm rừng
Icchànagala. Về Tôn giả Gotama ấy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền
đi: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng
với Thiên giới, Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài
Trời và Người. Sau khi đă chứng ngộ, Ngài tuyên thuyết điều Ngài đă
chứng ngộ, Ngài thuyết pháp điều Ngài đă chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ
thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ngài truyền dạy Phạm
hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch". Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị
A-la-hán như vậy! ". Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Icchànangala, sau khi
đêm ấy đă măn, cầm theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm, đi đến
khóm rừng Icchànangala, sau khi đến, đứng ở ngoài cổng vào, cao tiếng và
lớn tiếng.
2. Lúc bấy giờ, Tôn giả Nàgita là thị giả của Thế Tôn. Rồi Thế Tôn bảo
Tôn giả Nàgita:
- Này Nàgita, những ai đă cao tiếng và lớn tiếng như những người đánh cá
đang giết hại cá?
- Các người ấy, bạch Thế Tôn, là các Bà-la-môn gia chủ trú ở
Icchànangala đang đứng ở khu viên cổng ngoài, đem theo rất nhiều đồ ăn
loại cứng và loại mềm cho Thế Tôn và chúng Tăng.
- Này Nàgita, Ta không có liên hệ ǵ với danh vọng và danh vọng không có
liên hệ ǵ với Ta, Này Nàgita, những ai t́m được có khó khăn, t́m được
có mệt nhọc, t́m được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc,
chánh giác lạc, mà Ta đă t́m được không khó khăn, t́m được không mệt
nhọc, t́m được không phí sức, hăy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy
miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc.
- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hăy chấp nhận! Thiện Thệ hăy chấp nhận! Nay
Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào, tại chỗ ấy các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn
và ở quốc độ cũng sẽ đi đến với tâm hướng về cúng dường. Ví như trời mưa
nặng hột, và nước được chảy tùy theo chiều dốc; cũng vậy, bạch Thế Tôn,
nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào, tại chỗ ấy các Bà-la-môn gia chủ ở thị
trấn và ở quốc độ cũng sẽ đi đến, với tâm hướng về cúng dường. V́ cớ
sao? Bạch Thế Tôn do v́ giới hạnh và trí tuệ của Thế Tôn!
- Này Nàgita, Ta không có liên hệ ǵ với danh vọng và danh vọng không có
liên hệ ǵ với Ta. Này Nàgita, những ai t́m được có khó khăn, t́m được
có mệt nhọc, t́m được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc,
chánh giác lạc mà Ta đă t́m được không khó khăn, t́m được không mệt
nhọc, t́m được không phí sức, hăy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy
miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc.
3. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy một Tỷ-kheo ngồi Thiền định tại trú xứ ở
cuối làng. Này Nàgita, về vị ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nay có người coi
khu vườn hay người Sa-di phá phách vị Tỷ-kheo này, làm cho vị này xuất
khỏi thiền định". Do vậy, này Nàgita, Ta không có hoan hỷ với trú xứ của
vị ấy.
4. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy một Tỷ-kheo đang ngồi ngủ ngục ở trong
rừng. Này Nàgita, Ta suy nghĩ về vị ấy như sau: "Nay vị Tỷ-kheo này, sau
khi đoạn trừ ngủ nghỉ và mệt nhọc, sẽ tác ư tưởng về rừng đạt được nhất
tâm". Do vậy, nầy Nàgita, ta hoan hỷ với trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
5. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng, ngồi không Thiền định
trong rừng. Này Nàgita, đối với vị ấy, Ta suy nghĩ: "Nay Tỷ-kheo này sẽ
Thiền định được tâm không Thiền định, hay sẽ bảo vệ tâm đă được Thiền
định". Do vậy, này Nàgita. Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
6. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng ngồi với tâm Thiền
định ở rừng. Này Nàgita, đối với vị ấy, Ta suy nghĩ: "Nay Tỷ-kheo này sẽ
giải thoát, tâm chưa được giải thoát hay sẽ bảo vệ tâm sẽ được giải
thoát". Do vậy, này Nàgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo
ấy.
7. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở cuối làng, nhận được vật
dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, thích thú
với các lợi dưỡng, cung kính, danh văn ấy, bỏ phế thiền tịnh, bỏ phế các
trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng, đi xuống làng, thị trấn, kinh đô để
lo nuôi sống. Do vậy, này Nàgita, Ta không có hoan hỷ về trú xứ cuối
làng của Tỷ-kheo ấy.
8. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng nhận được các vật dụng
cần thiết như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, nhưng
chận đứng các lợi dưỡng, cung kính, danh văn ấy, không bỏ phế Thiền
tịnh, không bỏ phế các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Do vậy, này
Nàgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
Nhưng khi Ta đang bước đi trên con đường, trước mặt, Ta không thấy ai;
sau lưng, Ta không thấy ai; trong khi ấy, Ta cảm thấy an ổn, này Nàgita,
cho đến vấn đề đi đại, tiểu tiện.
|