CHÁNH KINH PALI
|
CHÚ GIẢI PALI
|
BẢN DỊCH VIỆT
|
Aṅguttaranikāyo
|
Aṅguttaranikāye
|
Tăng Chi Bộ
|
Sattakanipātapāḷi
|
Sattakanipāta -aṭṭhakathā
|
Chương
VII –
Bảy Pháp
|
4. Devatāvaggo
|
4. Devatāvaggo
|
IV. Phẩm Chư Thiên
|
1. Appamādagāravasuttaṃ
32. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya
rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami ;
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā
kho sā devatā bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘Sattime, bhante, dhammā bhikkhuno aparihānāya saṃvattanti. Katame
satta? Satthugāravatā, dhammagāravatā, saṅghagāravatā, sikkhāgāravatā,
samādhigāravatā, appamādagāravatā, paṭisanthāragāravatā. Ime kho,
bhante, satta dhammā bhikkhuno aparihānāya saṃvattantī’’ti. Idamavoca sā
devatā. Samanuñño satthā ahosi. Atha kho sā devatā ‘‘samanuñño me
satthā’’ti bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi – ‘‘imaṃ,
bhikkhave, rattiṃ aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā
kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ
abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhikkhave, sā devatā
maṃ etadavoca – ‘sattime, bhante, dhammā bhikkhuno aparihānāya
saṃvattanti. Katame satta? Satthugāravatā, dhammagāravatā,
saṅghagāravatā, sikkhāgāravatā, samādhigāravatā, appamādagāravatā,
paṭisanthāragāravatā – ime kho, bhante, satta dhammā bhikkhuno
aparihānāya saṃvattantī’ti. Idamavoca, bhikkhave, sā devatā. Idaṃ vatvā
maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī’’ti.
‘‘Satthugaru
dhammagaru,
saṅghe ca tibbagāravo;
Samādhigaru ātāpī [samādhigāravatāpi ca (ka.)],
sikkhāya tibbagāravo.
‘‘Appamādagaru bhikkhu,
paṭisanthāragāravo;
Abhabbo parihānāya,
nibbānasseva
santike’’ti. paṭhamaṃ;
|
|
(I) (32) Không Phóng Dật
1. Bấy giờ có một Thiên nhân, sau khi đêm đă gần măn, với dung sắc thù
thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn:
- Có bảy pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạc. Thế nào
là bảy? Tôn kính bậc Đạo Sư, tôn kính Pháp; tôn kính chúng Tăng; tôn
kính học tập; tôn kính định; tôn kính không phóng dật; tôn kính nghinh
đón. Bảy pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạc.
Thiên nhân ấy nói như vậy. Bậc Đạo Sư chấp nhận. Rồi Thiên nhân ấy với ư
nghĩ: "Bậc Đạo Sư đă chấp nhận ta", thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến
mất tại chỗ.
2. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đă qua, liền bảo các vị Tỷ-kheo:
- Đêm nay, này các Tỷ-kheo, một Thiên nhân sau khi đêm đă gần măn, với
dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Ta; sau khi đến,
đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên, này các Tỷ-kheo, Thiên nhân
ấy thưa với Ta: "Có bảy pháp, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa
lạc. Thế nào là bảy? Tôn kính bậc Đạo Sư, tôn kính Pháp; tôn kính Tăng,
tôn kính học pháp; tôn kính định; tôn kính không phóng dật, tôn kính
nghinh đón. Bảy pháp này bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạc".
Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói như vậy, sau khi nói xong, đảnh lễ
Ta, thân phía hữu hướng về Ta, rồi biến mất tại chỗ.
Kính trọng bậc Đạo Sư,
Kính trọng Pháp và Tăng,
Kính trọng định, nhiệt tâm,
Chí thành kính học tập,
Kính trọng không phóng dật,
Chí thành kính nghinh đón,
Không thể bị đọa lạc,
Tỷ-kheo gần Niết-bàn.
|
2. Hirīgāravasuttaṃ
33. ‘‘Imaṃ, bhikkhave, rattiṃ aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā
abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho,
bhikkhave, sā devatā maṃ etadavoca – ‘sattime, bhante, dhammā bhikkhuno
aparihānāya saṃvattanti. Katame satta? Satthugāravatā, dhammagāravatā,
saṅghagāravatā, sikkhāgāravatā, samādhigāravatā, hirigāravatā,
ottappagāravatā. Ime kho, bhante, satta dhammā bhikkhuno aparihānāya
saṃvattantī’ti. Idamavoca, bhikkhave, sā devatā. Idaṃ vatvā maṃ
abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī’’ti.
‘‘Satthugaru
dhammagaru,
saṅghe ca tibbagāravo;
Samādhigaru ātāpī,
sikkhāya tibbagāravo.
‘‘Hiri ottappasampanno,
sappatisso sagāravo;
Abhabbo parihānāya,
nibbānasseva
santike’’ti. dutiyaṃ;
|
|
(II) (33) Xấu Hổ
1. - Đêm này, này các Tỷ-kheo, một Thiên nhân, sau khi đêm đă gần măn,
với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Ta; sau khi
đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên, Thiên nhân ấy thưa với Ta: "Có bảy
pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạc. Thế nào là bảy?
Tôn kính bậc Đạo Sư, tôn kính Pháp; tôn kính Tăng, tôn kính học pháp;
tôn kính định; tôn kính xấu hổ, tôn kính sợ hăi. Bảy pháp này, bạch Thế
Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa". Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói
như vậy, nói như vậy xong, đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta rồi biến
mất tại chỗ.
Kính trọng bậc Đạo Sư,
Kính trọng Pháp và Tăng,
Kính trọng định, nhiệt tâm,
Chí thành kính học pháp,
Đầy đủ tàm và quư,
Tùy thuận và tôn kính,
Không thể bị đọa lạc,
Vị ấy gần Niết-bàn.
|
3. Paṭhamasovacassatāsuttaṃ
34. ‘‘Imaṃ , bhikkhave, rattiṃ aññatarā
devatā…pe… maṃ etadavoca – ‘sattime, bhante, dhammā bhikkhuno
aparihānāya saṃvattanti. Katame satta? Satthugāravatā, dhammagāravatā,
saṅghagāravatā, sikkhāgāravatā, samādhigāravatā, sovacassatā,
kalyāṇamittatā. Ime kho, bhante, satta dhammā bhikkhuno aparihānāya
saṃvattantī’ti. Idamavoca, bhikkhave , sā devatā.
Idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī’’ti.
‘‘Satthugaru dhammagaru,
saṅghe ca tibbagāravo;
Samādhigaru ātāpī,
sikkhāya tibbagāravo.
‘‘Kalyāṇamitto suvaco,
sappatisso sagāravo;
Abhabbo parihānāya,
nibbānasseva
santike’’ti. tatiyaṃ;
|
|
(III) (34) Dễ Nói (1)
1. - Đêm này, này các Tỷ-kheo, một Thiên nhân, sau khi đêm đă gần măn,
với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Ta; sau khi
đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên, Thiên nhân ấy thưa với Ta: "Có bảy
pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạc. Thế nào là bảy?
Tôn kính bậc Đạo Sư, tôn kính Pháp; tôn kính Tăng, tôn kính học pháp;
tôn kính định; tôn kính thiện ngôn, tôn kính thiện bằng hữu. Bảy pháp
này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa". Này các Tỷ-kheo,
Thiên nhân ấy nói như vậy, nói như vậy xong, đảnh lễ Ta, thân bên hữu
hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Kính trọng bậc Đạo Sư,
Kính trọng Pháp và Tăng,
Kính trọng định, nhiệt tâm,
Chí thành kính học pháp,
Đầy đủ thiện ngôn và thiện bằng hữu,
Tùy thuận và tôn kính,
Không thể bị đọa lạc,
Vị ấy gần Niết-bàn.
|
4. Dutiyasovacassatāsuttaṃ
35. ‘‘Imaṃ , bhikkhave, rattiṃ aññatarā
devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā…pe… ‘sattime, bhante, dhammā
bhikkhuno aparihānāya saṃvattanti. Katame satta? Satthugāravatā,
dhammagāravatā, saṅghagāravatā, sikkhāgāravatā, samādhigāravatā,
sovacassatā, kalyāṇamittatā. Ime kho, bhante, satta dhammā bhikkhuno
aparihānāya saṃvattantī’ti. Idamavoca, bhikkhave, sā devatā. Idaṃ vatvā
maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī’’ti.
Evaṃ vutte āyasmā sāriputto bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘imassa kho ahaṃ,
bhante, bhagavatā saṃkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi.
Idha, bhante, bhikkhu attanā ca satthugāravo hoti, satthugāravatāya ca
vaṇṇavādī. Ye caññe bhikkhū na satthugāravā te ca satthugāravatāya
samādapeti. Ye caññe bhikkhū satthugāravā tesañca vaṇṇaṃ bhaṇati bhūtaṃ
tacchaṃ kālena. Attanā ca dhammagāravo hoti…pe… saṅghagāravo hoti…
sikkhāgāravo hoti… samādhigāravo hoti… suvaco hoti… kalyāṇamitto hoti,
kalyāṇamittatāya ca vaṇṇavādī. Ye caññe bhikkhū na
kalyāṇamittā te ca kalyāṇamittatāya samādapeti .
Ye caññe bhikkhū kalyāṇamittā tesañca vaṇṇaṃ bhaṇati bhūtaṃ tacchaṃ
kālenāti. Imassa kho ahaṃ, bhante, bhagavatā saṃkhittena bhāsitassa evaṃ
vitthārena atthaṃ ājānāmī’’ti.
‘‘Sādhu sādhu, sāriputta! Sādhu kho tvaṃ, sāriputta, imassa mayā
saṃkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāsi. Idha, sāriputta,
bhikkhu attanā ca satthugāravo hoti, satthugāravatāya ca vaṇṇavādī. Ye
caññe bhikkhū na satthugāravā te ca satthugāravatāya samādapeti .
Ye caññe bhikkhū satthugāravā tesañca vaṇṇaṃ bhaṇati bhūtaṃ tacchaṃ
kālena. Attanā ca dhammagāravo hoti…pe… saṅghagāravo hoti… sikkhāgāravo
hoti… samādhigāravo hoti… suvaco hoti… kalyāṇamitto hoti,
kalyāṇamittatāya ca vaṇṇavādī. Ye caññe bhikkhū na kalyāṇamittā te ca
kalyāṇamittatāya samādapeti. Ye caññe bhikkhū kalyāṇamittā tesañca
vaṇṇaṃ bhaṇati bhūtaṃ tacchaṃ kālenāti. Imassa kho, sāriputta, mayā
saṃkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo’’ti. Catutthaṃ.
|
|
(IV) (35) Dễ Nói (2)
1. - Đêm nay, này các Tỷ-kheo, một Thiên nhân sau khi đêm ấy đă gần măn,
với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Ta; sau khi
đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên, vị ấy thưa với Ta: "Bảy
pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạc. Thế nào là bảy?
Tôn kính bậc Đạo Sư, tôn kính Pháp; tôn kính Tăng, tôn kính học pháp;
tôn kính định; tôn kính thiện ngôn, tôn kính thiện bằng hữu. Bảy pháp
này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạc". Này các Tỷ-kheo,
Thiên nhân ấy nói như vậy, sau khi nói xong, đảnh lễ Ta, thân bên hữu
hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
2. Được nghe nói vậy, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
3. - Lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, bạch Thế Tôn, con hiểu một cách
rộng răi như sau: Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo tự ḿnh tôn kính bậc Đạo
Sư, tán thán sự tôn kính bậc Đạo Sư. Đối với những Tỷ-kheo khác không
tôn kính bậc Đạo Sư, vị ấy khích lệ họ tôn kính bậc Đạo Sư. Đối với
những Tỷ-kheo khác tôn kính bậc Đạo Sư, vị ấy tán thán một cách chơn
thật, chơn chánh, đúng thời. Tự ḿnh tôn kính Pháp... tự ḿnh tôn kính
chúng Tăng... tự ḿnh tôn kính học pháp... tự ḿnh tôn kính thiện
ngôn... tự ḿnh tôn kính thiện bằng hữu, tán thán sự tôn kính thiện bằng
hữu. Đối với những Tỷ-kheo khác không tôn kính thiện bằng hữu, vị ấy
khích lệ họ tôn kính thiện bằng hữu. Đối với những Tỷ-kheo khác Tôn kính
thiện bằng hữu, vị ấy tán thán một cách chơn thật, chơn chánh, đúng
thời. Lời nói vắn tắt này các Thế Tôn, bạch Thế Tôn, con hiểu một cách
rộng răi như vậy.
4. - Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Này Sàriputta, lời nói vắn tắt
này của Ta, đă được Thầy hiểu ư nghĩa một cách rộng răi như vậy. Ở đây,
này Sàriputta, Tỷ-kheo tự ḿnh tôn kính bậc Đạo Sư... (như trên, với
những thay đổi cần thiết)... một cách chơn thực, chơn chánh, đúng thời.
Lời nói vắn tắt này của Ta, này Sàriputta, cần phải hiểu ư nghĩa một
cách rộng răi như vậy.
|
5. Paṭhamamittasuttaṃ
36. ‘‘Sattahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgato mitto sevitabbo.
Katamehi sattahi? Duddadaṃ dadāti, dukkaraṃ karoti, dukkhamaṃ khamati,
guyhamassa [guyhassa (ka.)] āvi
karoti, guyhamassa [guyhaṃ
assa (sī.), guyhassa (ka.)] pariguhati [parigūhati
(sī. syā.), pariguyhati (ka.)], āpadāsu na jahati, khīṇena [khīṇe
(ka.)] nātimaññati.
Imehi kho, bhikkhave, sattahi aṅgehi samannāgato mitto sevitabbo’’ti .
‘‘Duddadaṃ dadāti
mitto, dukkarañcāpi kubbati;
Athopissa duruttāni, khamati dukkhamāni ca [dukkhamānipi (sī.
syā.)].
‘‘Guyhañca tassa [guyhamassa ca (syā.)] akkhāti,
guyhassa parigūhati;
Āpadāsu na jahāti,
khīṇena nātimaññati.
‘‘Yamhi etāni ṭhānāni,
saṃvijjantīdha [saṃvijjanti
ca (ka.)] puggale;
So mitto mittakāmena, bhajitabbo tathāvidho’’ti. pañcamaṃ;
|
5. Paṭhamamittasuttavaṇṇanā
36.
Catutthassa pañcame duddadanti duppariccajaṃ mahārahaṃ bhaṇḍakaṃ. Dukkaraṃ
karotīti kātuṃ asukaraṃ kammaṃ karoti. Dukkhamaṃ khamatīti sahāyassa atthāya duradhivāsaṃ
adhivāseti. Guyhamassa
āvikarotīti attano guyhaṃ tassa āvikaroti. Guyhamassa
pariguhatīti tassa guyhaṃ aññesaṃ nācikkhati. Khīṇena nātimaññatīti tassa bhoge khīṇe tena khayena taṃ
nātimaññati, tasmiṃ omānaṃ attani ca atimānaṃ na karoti.
|
(V) (36) Bạn Hữu(1)
1. - Thành tựu bảy chi phần, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải thân
cận như một người bạn. Thế nào là bảy?
2. Cho những ǵ khó cho, làm những ǵ khó làm, nhẫn những ǵ khó nhẫn,
nói lên những ǵ bí mật của ḿnh, che giấu bí mật của người khác, không
từ bỏ khi gặp bất hạnh, không có khinh rẻ khi tài sản khánh tận.
Thành tựu bảy chi phần này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải thân
cận như một người bạn.
Bạn cho điều khó cho,
Làm những điều khó làm,
Kham nhẫn những lời nói,
Thật khó ḷng kham nhẫn,
Nói lên bí mật ḿnh,
Che giấu bí mật người,
Bất hạnh, không từ bỏ,
Khánh tận, không chê khinh,
Trong những trường hợp trên,
T́m được người như vậy,
Với ai cần bạn hữu,
Hăy gần bạn như vậy.
|
6. Dutiyamittasuttaṃ
37. ‘‘Sattahi ,
bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu mitto sevitabbo bhajitabbo
payirupāsitabbo api panujjamānenapi [paṇujjamānenapi
(sī.)]. Katamehi sattahi? Piyo ca hoti manāpo ca garu ca bhāvanīyo ca
vattā ca vacanakkhamo ca gambhīrañca kathaṃ kattā hoti, no ca aṭṭhāne
niyojeti . Imehi kho, bhikkhave, sattahi dhammehi
samannāgato bhikkhu mitto sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo api
panujjamānenapī’’ti.
‘‘Piyo garu bhāvanīyo,
vattā ca vacanakkhamo;
Gambhīrañca kathaṃ kattā, no caṭṭhāne niyojako [niyojaye
(sī. syā.)].
‘‘Yamhi etāni ṭhānāni,
saṃvijjantīdha puggale;
So mitto mittakāmena,
atthakāmānukampato;
Api nāsiyamānena, bhajitabbo tathāvidho’’ti. chaṭṭhaṃ;
|
6. Dutiyamittasuttavaṇṇanā
37.
Chaṭṭhe vattāti
vacanakusalo. Vacanakkhamoti
vacanaṃ khamati, dinnaṃ ovādaṃ karoti. Gambhīranti
guyhaṃ rahassaṃ jhānanissitaṃ vipassanāmaggaphalanibbānanissitaṃ.
|
(VI) (37) Bạn Hữu (2)
1. - Thành tựu bảy chi phần, này các Tỷ-kheo, là người bạn cần phải thân
cận, cần phải giao thiệp, cần phải hầu cận, dầu có bị xua đuổi. Thế nào
là bảy?
2. Khả ái, khả ư; tôn trọng; đáng được bắt chước; nhà thuyết giả; kham
nhẫn lời nói; nói lời sâu kín; không có hối thúc những điều không hợp
lư.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người bạn, cần phải
thân cận, cần phải giao thiệp, cần phải hầu hạ, dầu có bị xua đuổi.
Khả ái và đáng kính,
Đáng bắt chước, thuyết giả,
Kham nhẫn các lời nói,
Nói những lời thâm sâu,
Không hối thúc ép buộc,
Những điều không hợp lư,
Ai có những pháp này,
Ở đời, người như vậy,
Người ấy là bạn hữu,
Với ai cần bạn hữu,
Người mong muốn lợi ích,
Với ḷng từ ai mẫn.
Dầu có bị đuổi xua,
Hăy thân cận bạn ấy.
|
7. Paṭhamapaṭisambhidāsuttaṃ
38. ‘‘Sattahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu nacirasseva
catasso paṭisambhidā sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja vihareyya. Katamehi sattahi? Idha, bhikkhave, bhikkhu ‘idaṃ
me cetaso līnatta’nti yathābhūtaṃ pajānāti; ajjhattaṃ saṃkhittaṃ vā
cittaṃ ‘ajjhattaṃ me saṃkhittaṃ citta’nti yathābhūtaṃ pajānāti; bahiddhā
vikkhittaṃ vā cittaṃ ‘bahiddhā me vikkhittaṃ citta’nti yathābhūtaṃ
pajānāti; tassa viditā vedanā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā
abbhatthaṃ gacchanti; viditā saññā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti,
viditā abbhatthaṃ gacchanti; viditā vitakkā
uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā abbhatthaṃ gacchanti;
sappāyāsappāyesu kho panassa dhammesu hīnappaṇītesu
kaṇhasukkasappatibhāgesu nimittaṃ suggahitaṃ hoti sumanasikataṃ
sūpadhāritaṃ suppaṭividdhaṃ paññāya. Imehi kho, bhikkhave, sattahi
dhammehi samannāgato bhikkhu nacirasseva catasso paṭisambhidā sayaṃ
abhiññā sacchikatvā upasampajja vihareyyā’’ti. Sattamaṃ.
|
7. Paṭhamapaṭisambhidāsuttavaṇṇanā
38.
Sattame idaṃ
me cetaso līnattanti uppanne cetaso līnatte ‘‘idaṃ me
cetaso līnatta’’nti yathāsabhāvato jānāti. Ajjhattaṃ
saṃkhittaṃ nāma thinamiddhānugataṃ. Bahiddhā vikkhittaṃ nāma pañcasu kāmaguṇesu vikkhittaṃ. Vedanātiādīni papañcamūlavasena gahitāni. Vedanā hi
taṇhāya mūlaṃ sukhavasena taṇhuppattito, saññā diṭṭhiyā mūlaṃ
avibhūtārammaṇe diṭṭhiuppattito, vitakko mānassa mūlaṃ vitakkavasena
asmīti mānuppattito. Sappāyāsappāyesūti
upakārānupakāresu. Nimittanti kāraṇaṃ. Sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.
|
(VII) (38) Vô Ngại Giải (1)
1. - Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu, với
thắng trí tự ḿnh chứng ngộ, chứng đạt và an trú bốn vô ngại giải. Thế
nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi nào tâm thụ động, như thật rơ
biết: "Đây là tâm ta thụ động"; khi nào tâm muội lược, như thật rơ biết:
"Nội tâm ta muội lược"; khi nào tâm tán loạn, hướng ngoại". Như thật rơ
biết tâm ta tán loạn hướng ngoại. Vị ấy nhận thức được các thọ khởi lên,
nhận thức được các thọ an trú, nhận thức được các thọ đi đến tiêu diệt;
nhận thức được các tưởng khởi lên, nhận thức được các tưởng an trú, nhận
thức được các tưởng tiêu diệt; nhận thức được các tầm khởi lên, nhận
thức được các tầm an trú, nhận thức được các tầm tiêu diệt. Đối với các
pháp thích hợp hay không thích hợp, đối với các pháp hạ liệt hay thù
thắng, đối với các pháp dự phần đen hay dự phần trắng, vị ấy khéo nắm
giữ tướng, khéo tác ư, khéo thọ tŕ, khéo thể nhập với trí tuệ.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo không bao lâu, với
thắng trí tự ḿnh chứng ngộ, chứng đạt và an trú bốn vô ngại giải.
|
8. Dutiyapaṭisambhidāsuttaṃ
39. ‘‘Sattahi , bhikkhave, dhammehi
samannāgato sāriputto catasso paṭisambhidā sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja viharati. Katamehi sattahi? Idha, bhikkhave, sāriputto
‘idaṃ me cetaso līnatta’nti yathābhūtaṃ pajānāti;
ajjhattaṃ saṃkhittaṃ vā cittaṃ ‘ajjhattaṃ me saṃkhittaṃ citta’nti
yathābhūtaṃ pajānāti; bahiddhā vikkhittaṃ vā cittaṃ ‘bahiddhā me
vikkhittaṃ citta’nti yathābhūtaṃ pajānāti; tassa viditā vedanā
uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā abbhatthaṃ gacchanti; viditā saññā…pe…
vitakkā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā abbhatthaṃ gacchanti;
sappāyāsappāyesu kho panassa dhammesu hīnappaṇītesu
kaṇhasukkasappatibhāgesu nimittaṃ suggahitaṃ sumanasikataṃ sūpadhāritaṃ
suppaṭividdhaṃ paññāya. Imehi kho, bhikkhave, sattahi dhammehi
samannāgato sāriputto catasso paṭisambhidā sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja viharatī’’ti. Aṭṭhamaṃ.
|
|
(VIII) (39) Vô Ngại Giải (2)
1. - Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Sàriputta với thắng trí tự
ḿnh chứng ngộ, chứng đạt và an trú bốn vô ngại giải. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sàriputtakhi nào tâm thụ động, như thật rơ
biết: "Đây là tâm ta thụ động"; khi nào tâm muội lược, như thật rơ biết:
"Nội tâm ta muội lược"; khi nào tâm tán loạn, hướng ngoại". Như thật rơ
biết tâm ta tán loạn hướng ngoại. Vị ấy nhận thức được các thọ khởi lên,
nhận thức được các thọ an trú, nhận thức được các thọ đi đến tiêu diệt;
nhận thức được các tưởng khởi lên, nhận thức được các tưởng an trú, nhận
thức được các tưởng tiêu diệt; nhận thức được các tầm khởi lên, nhận
thức được các tầm an trú, nhận thức được các tầm tiêu diệt. Đối với các
pháp thích hợp hay không thích hợp, đối với các pháp hạ liệt hay thù
thắng, đối với các pháp dự phần đen hay dự phần trắng, vị ấy khéo nắm
giữ tướng, khéo tác ư, khéo thọ tŕ, khéo thể nhập với trí tuệ.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Sàriputta không bao lâu, với
thắng trí tự ḿnh chứng ngộ, chứng đạt và an trú bốn vô ngại giải.
|
9. Paṭhamavasasuttaṃ
40. ‘‘Sattahi , bhikkhave, dhammehi
samannāgato bhikkhu cittaṃ vase [vasaṃ
(ka.)] vatteti,
no ca bhikkhu cittassa vasena vattati. Katamehi sattahi? Idha,
bhikkhave, bhikkhu samādhikusalo hoti, samādhissa samāpattikusalo hoti,
samādhissa ṭhitikusalo hoti, samādhissa vuṭṭhānakusalo hoti, samādhissa
kalyāṇakusalo hoti, samādhissa gocarakusalo hoti, samādhissa
abhinīhārakusalo hoti. Imehi kho, bhikkhave, sattahi dhammehi
samannāgato bhikkhu cittaṃ vase vatteti, no ca bhikkhu cittassa vasena
vattatī’’ti. Navamaṃ.
|
|
(IX) (40) Điều Phục (1)
1. - Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo điều phục tâm và không
để ḿnh bị tâm điều phục. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thiện xảo về định, thiện xảo nhập
định, thiện xảo an trú định, thiện xảo xuất khỏi định, thiện xảo trong
sự thoải mái của định, thiện xảo trong cảnh giới của định, thiện xảo
trong dẫn phát đến định.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo điều phục tâm và không
để ḿnh bị tâm điều phục.
|
10. Dutiyavasasuttaṃ
41. ‘‘Sattahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato sāriputto cittaṃ
vase vatteti, no ca sāriputto cittassa vasena vattati. Katamehi sattahi?
Idha, bhikkhave, sāriputto samādhikusalo hoti, samādhissa
samāpattikusalo, samādhissa ṭhitikusalo, samādhissa vuṭṭhānakusalo,
samādhissa kalyāṇakusalo, samādhissa gocarakusalo, samādhissa abhinīhārakusalo
hoti. Imehi kho, bhikkhave , sattahi dhammehi
samannāgato sāriputto cittaṃ vase vatteti, no ca sāriputto cittassa
vasena vattatī’’ti. Dasamaṃ.
|
|
(X) (41) Điều Phục (2)
3. Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ kheo, Sariputta điều phục tâm và
Sariputta không để ḿnh bị tâm điều phục. Thế nào là bảy?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sàriputta thiện xảo về định, thiện xảo nhập
định, thiện xảo an trú định, thiện xảo xuất khỏi định, thiện xảo trong
sự thoải mái về Thiền định, thiện xảo trong cảnh giới định, thiện xảo
trong dẫn phát đến định.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Sàriputta điều phục tâm và
Sàriputta không để ḿnh bị tâm điều phục.
|
11. Paṭhamaniddasasuttaṃ
42. Atha kho āyasmā sāriputto pubbaṇhasamayaṃ
nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Atha kho āyasmato
sāriputtassa etadahosi – ‘‘atippago kho tāva
sāvatthiyaṃ piṇḍāya carituṃ. Yaṃnūnāhaṃ yena aññatitthiyānaṃ
paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkameyya’’nti. Atha kho āyasmā sāriputto
yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ
sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Tena kho pana samayena tesaṃ
aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ
ayamantarākathā udapādi – ‘‘yo hi koci, āvuso, dvādasavassāni paripuṇṇaṃ
parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati, ‘niddaso bhikkhū’ti alaṃ vacanāyā’’ti.
Atha kho āyasmā sāriputto tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ bhāsitaṃ
neva abhinandi nappaṭikkosi. Anabhinanditvā appaṭikkositvā uṭṭhāyāsanā
pakkāmi – ‘‘bhagavato santike etassa bhāsitassa atthaṃ ājānissāmī’’ti.
Atha kho āyasmā sāriputto sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ
piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā
sāriputto bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘Idhāhaṃ, bhante, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā
pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisiṃ. Tassa mayhaṃ, bhante,
etadahosi – ‘atippago kho tāva sāvatthiyaṃ piṇḍāya carituṃ. Yaṃnūnāhaṃ
yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkameyya’nti. Atha
khvāhaṃ, bhante, yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo
tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ
sammodiṃ. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ.
Tena kho pana, bhante, samayena tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ
sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ ayamantarākathā
udapādi – ‘yo hi koci, āvuso, dvādasavassāni
paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati, niddaso bhikkhūti alaṃ
vacanāyā’ti. Atha khvāhaṃ, bhante, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ
bhāsitaṃ neva abhinandiṃ nappaṭikkosiṃ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā
uṭṭhāyāsanā pakkamiṃ [pakkāmiṃ (sī. syā.)] –
‘bhagavato santike etassa atthaṃ ājānissāmī’ti. Sakkā nu kho, bhante,
imasmiṃ dhammavinaye kevalaṃ vassagaṇanamattena niddaso bhikkhu
paññāpetu’’nti?
‘‘Na kho, sāriputta, sakkā imasmiṃ dhammavinaye kevalaṃ
vassagaṇanamattena niddaso bhikkhu paññāpetuṃ. Satta kho imāni,
sāriputta, niddasavatthūni mayā sayaṃ abhiññā sacchikatvā paveditāni.
[a. ni. 7.20; dī. ni. 3.331] ‘‘Katamāni
satta? Idha, sāriputta, bhikkhu sikkhāsamādāne tibbacchando hoti
āyatiñca sikkhāsamādāne avigatapemo, dhammanisantiyā tibbacchando hoti
āyatiñca dhammanisantiyā avigatapemo, icchāvinaye
tibbacchando hoti āyatiñca icchāvinaye avigatapemo, paṭisallāne
tibbacchando hoti āyatiñca paṭisallāne avigatapemo, vīriyārambhe
tibbacchando hoti āyatiñca vīriyārambhe avigatapemo, satinepakke
tibbacchando hoti āyatiñca satinepakke avigatapemo, diṭṭhipaṭivedhe
tibbacchando hoti āyatiñca diṭṭhipaṭivedhe avigatapemo. Imāni kho,
sāriputta, satta niddasavatthūni mayā sayaṃ abhiññā sacchikatvā
paveditāni. Imehi kho, sāriputta, sattahi niddasavatthūhi samannāgato
bhikkhu dvādasa cepi vassāni paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ
carati, ‘niddaso bhikkhū’ti alaṃ vacanāya; catubbīsati cepi vassāni
paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati, ‘niddaso bhikkhū’ti alaṃ vacanāya;
chattiṃsati cepi vassāni paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati,
‘niddaso bhikkhū’ti alaṃ vacanāya, aṭṭhacattārīsaṃ cepi vassāni
paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati, ‘niddaso bhikkhū’ti alaṃ
vacanāyā’’ti. Ekādasamaṃ.
|
|
(XI) (42) Sự Thù Diệu (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatth́, tại Jetavana, trong khu vườn ông
Anathapindika. Bấy giờ Tôn giả Sàriputta vào buổi sáng, đắp y, cầm y
bát, đi vào Sàvatth́ để khất thực. Tôn giả Sàriputta suy nghĩ như sau:
"Thật là quá sớm để đi khất thực ở Sàvatth́, vậy ta hăy đi đến khu vườn
của các du sĩ ngoại đạo". Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến khu vườn của các
du sĩ ngoại đạo, sau khi đến khu vườn của các du sĩ ngoại đạo, sau khi
đến, nói lên với các du sĩ ngoại đạo những lời chào đón hỏi thăm, sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một
bên.
2. Lúc bấy giờ, các du sĩ ngoại đạo ấy đang ngồi tụ họp và câu chuyện
sau đây được khởi lên: "Này chư Hiền, ai sống mười hai năm hành tŕ Phạm
hạnh viên măn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói: 'Vị Tỷ-kheo đáng được
tán thán'". Rồi Tôn giả Sàriputta không tùy hủy, không chỉ trích lời nói
của các du sĩ ngoại đạo ấy; không tùy hỷ, không chỉ trích, từ chỗ ngồi
đứng dậy và ra đi với ư nghĩ: "Ta sẽ rơ biết ư nghĩa này từ Thế Tôn".
3. Rồi Tôn giả Sàriputta, sau khi khất thực ở Sàvatth́ xong, sau buổi
ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Sàriputta bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi sáng, con đắp y, cầm y bát, đi vào
Sàvatth́ để khất thực. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Thật là
quá sớm để đi khất thực ở Sàvatth́, vậy ta hăy đi đến khu vườn của các
du sĩ ngoại đạo". Rồi bạch Thế Tôn, con đi đến khu vườn của các du sĩ
ngoại đạo; sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại đạo ấy những lời
chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu
rồi, con ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ, bạch Thế Tôn, các du sĩ ngoại
đạo ấy đang ngồi tụ họp và câu chuyện sau đây được khởi lên: "Này chư
Hiền, ai sống mười hai năm hành tŕ Phạm hạnh viên măn thanh tịnh, thật
là vừa đủ để nói: 'Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán'". Rồi bạch Thế Tôn,
con không tùy hỷ, không chỉ trích lời nói của các du sĩ ngoại đạo ấy;
không tùy hỷ, không chỉ trích, con từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi với ư
nghĩ: "Ta sẽ rơ biết ư nghĩa này từ Thế Tôn". Bạch Thế Tôn, trong Pháp
và Luật này, có thể nêu rơ một Tỷ-kheo đáng được tán thán, hoàn toàn do
đếm số năm chăng?
- Này Sàriputta, trong Pháp, và Luật này, không có thể nêu rơ một
Tỷ-kheo đáng được tán thán, hoàn toàn do đếm số năm. Bảy sự thù diệu
này, này Sàriputta, sau khi với thắng trí, Ta tự chứng ngộ, chứng đạt,
an trú, và tuyên thuyết. Thế nào là bảy?
4. Ở đây, này Sàriputta, Tỷ-kheo tha thiết hành tŕ học pháp và trong
tương lai khát vọng hành tŕ học pháp; tha thiết quán pháp và trong
tương lai khát vọng quán pháp; tha thiết nhiếp phục ḷng dục; và trong
tương lai khát vọng nhiếp phục ḷng dục, tha thiết Thiền tịnh, trong
tương lai khát vọng Thiền tịnh; tha thiết tinh cần tinh tấn và trong
tương lai khát vọng tinh cần tinh tấn; tha thiết niệm tuệ và trong tương
lai khát vọng niệm tuệ; tha thiết thể nhập tri kiến và trong tương lai
khát vọng thể nhập tri kiến.
Này Sàriputta, bảy thù diệu sự này được Ta tự ḿnh với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt, an trú và tuyên thuyết.
5. Thành tựu bảy thù diệu sự này, này Sàriputta, Tỷ-kheo, nếu trong mười
hai năm hành tŕ Phạm hạnh viên măn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói:
"Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán!". Nếu trong hai mươi bốn năm hành tŕ
Phạm hạnh viên măn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng
được tán thán!" Nếu trong ba mươi sáu năm hành tŕ Phạm hạnh viên măn
thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán!". Nếu
trong bốn mươi tám năm hành tŕ Phạm hạnh viên măn thanh tịnh, thật là
vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán!"
|
12. Dutiyaniddasasuttaṃ
43. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā kosambiyaṃ viharati
ghositārāme. Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā
pattacīvaramādāya kosambiṃ piṇḍāya pāvisi. Atha
kho āyasmato ānandassa etadahosi – ‘‘atippago kho tāva kosambiyaṃ
piṇḍāya carituṃ. Yaṃnūnāhaṃ yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo
tenupasaṅkameyya’’nti. Atha kho āyasmā ānando yena
aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkami ;
upasaṅkamitvā tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ sammodi.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
Tena kho pana samayena tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ
sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ ayamantarākathā udapādi – ‘‘yo hi koci,
āvuso, dvādasa vassāni paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati,
‘niddaso bhikkhū’ti alaṃ vacanāyā’’ti.
Atha kho āyasmā ānando tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ bhāsitaṃ
neva abhinandi nappaṭikkosi. Anabhinanditvā appaṭikkositvā uṭṭhāyāsanā
pakkāmi – ‘‘bhagavato santike etassa bhāsitassa atthaṃ ājānissāmī’’ti.
Atha kho āyasmā ānando kosambiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ
piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā
ānando bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘Idhāhaṃ, bhante, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya kosambiṃ
piṇḍāya pāvisiṃ. Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi – ‘atippago kho tāva
kosambiyaṃ piṇḍāya carituṃ. Yaṃnūnāhaṃ yena aññatitthiyānaṃ
paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkameyya’nti…pe… tehi saddhiṃ sammodiṃ.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ.
‘‘Tena kho pana, bhante, samayena tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ sannisinnānaṃ
sannipatitānaṃ ayamantarākathā udapādi – ‘yo hi koci, āvuso,
dvādasavassāni paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati, niddaso
bhikkhūti alaṃ vacanāyā’ti. Atha khvāhaṃ, bhante, tesaṃ aññatitthiyānaṃ
paribbājakānaṃ bhāsitaṃ neva abhinandiṃ nappaṭikkosiṃ. Anabhinanditvā,
appaṭikkositvā uṭṭhāyāsanā pakkamiṃ – ‘bhagavato santike etassa
bhāsitassa atthaṃ ājānissāmī’ti. Sakkā nu kho,
bhante, imasmiṃ dhammavinaye kevalaṃ vassagaṇanamattena niddaso bhikkhu
paññāpetu’’nti?
‘‘Na kho, ānanda, sakkā imasmiṃ dhammavinaye
kevalaṃ vassagaṇanamattena niddaso bhikkhu paññāpetuṃ. Satta kho imāni,
ānanda, niddasavatthūni mayā sayaṃ abhiññā sacchikatvā paveditāni.
‘‘Katamāni satta? Idhānanda, bhikkhu, saddho hoti, hirīmā hoti, ottappī
hoti, bahussuto hoti, āraddhavīriyo hoti, satimā hoti, paññavā hoti.
Imāni kho, ānanda, satta niddasavatthūni mayā sayaṃ abhiññā sacchikatvā
paveditāni. Imehi kho, ānanda, sattahi
niddasavatthūhi samannāgato bhikkhu dvādasa cepi vassāni paripuṇṇaṃ
parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati, ‘niddaso bhikkhū’ti alaṃ vacanāya;
catubbīsati cepi vassāni paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati,
‘niddaso bhikkhū’ti alaṃ vacanāya; chattiṃsati cepi vassāni paripuṇṇaṃ
parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carati, ‘niddaso bhikkhū’ti alaṃ vacanāya,
aṭṭhacattārīsaṃ cepi vassāni paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ
carati, ‘niddasobhikkhū’ti alaṃ vacanāyā’’ti.
Dvādasamaṃ.
|
|
(XII) (43) Sự Thù Diệu (2)
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Kosamb́, tại khu vườn Ghosita. Rồi Tôn giả Ananda
vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Kosamb́ để khất thực. Tôn giả
Ananda suy nghĩ: "Thật là quá sớm để đi khất thực ở Kosamb́, vậy ta hăy
đi đến khu vườn của các du sĩ ngoại đạo". Rồi Tôn giả Ananda đi đến khi
vườn của các du sĩ ngoại đạo, sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại
đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
2. Lúc bấy giờ, các du sĩ ngoại đạo ấy đang ngồi tụ họp và câu chuyện
sau đây được khởi lên: "Này chư Hiền, ai sống mười hai năm hành tŕ Phạm
hạnh viên măn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói: 'Vị Tỷ-kheo đáng được
tán thán'". Rồi Tôn giả Ananda không tùy hủy, không chỉ trích lời nói
của các du sĩ ngoại đạo ấy; không tùy hỷ, không chỉ trích, từ chỗ ngồi
đứng dậy và ra đi với ư nghĩ: "Ta sẽ rơ biết ư nghĩa này từ Thế Tôn".
3. Rồi Tôn giả Ananda, sau khi khất thực ở Sàvatth́ xong, sau buổi ăn,
trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch
Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi sáng, con đắp y, cầm y bát, đi vào
Sàvatth́ để khất thực. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Thật là
quá sớm để đi khất thực ở Sàvatth́, vậy ta hăy đi đến khu vườn của các
du sĩ ngoại đạo". Rồi bạch Thế Tôn, con đi đến khu vườn của các du sĩ
ngoại đạo; sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại đạo ấy những lời
chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu
rồi, con ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ, bạch Thế Tôn, các du sĩ ngoại
đạo ấy đang ngồi tụ họp và câu chuyện sau đây được khởi lên: "Này chư
Hiền, ai sống mười hai năm hành tŕ Phạm hạnh viên măn thanh tịnh, thật
là vừa đủ để nói: 'Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán'". Rồi bạch Thế Tôn,
con không tùy hỷ, không chỉ trích lời nói của các du sĩ ngoại đạo ấy;
không tùy hỷ, không chỉ trích, con từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi với ư
nghĩ: "Ta sẽ rơ biết ư nghĩa này từ Thế Tôn". Bạch Thế Tôn, trong Pháp
và Luật này, có thể nêu rơ một Tỷ-kheo đáng được tán thán, hoàn toàn do
đếm số năm chăng?
- Này Ananda, trong Pháp, và Luật này, không có thể nêu rơ một Tỷ-kheo
đáng được tán thán, hoàn toàn do đếm số năm. Bảy sự thù diệu này, này
Ananda, sau khi với thắng trí, Ta tự chứng ngộ, chứng đạt, an trú, và
tuyên thuyết. Thế nào là bảy?
4. Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo có ḷng tin, có ḷng xấu hổ, có ḷng sợ
hăi, có nghe nhiều, có tinh cần tinh tấn, có chánh niệm, có trí tuệ.
Bảy thù diệu sự này, này Ananda, được Ta tự ḿnh với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt, an trú và tuyên thuyết.
5. Thành tựu bảy thù diệu sự này, này Ananda, Tỷ-kheo nếu trong mười hai
năm hành tŕ Phạm hạnh viên măn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói" Vị
Tỷ-kheo đáng được tán thán!". Nếu trong hai mươi bốn năm hành tŕ Phạm
hạnh viên măn thanh tịnh, thật là vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được
tán thán!" Nếu trong ba mươi sáu năm hành tŕ Phạm hạnh viên măn thanh
tịnh, thật là vừa đủ để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán!". Nếu trong
bốn mươi tám năm hành tŕ Phạm hạnh viên măn thanh tịnh, thật là vừa đủ
để nói: "Vị Tỷ-kheo đáng được tán thán!".
|