CHÁNH KINH
PALI
|
CHÚ GIẢI
PALI
|
BẢN DỊCH
VIỆT
|
Aṅguttaranikāyo
|
Aṅguttaranikāye
|
Tăng Chi Bộ
|
Aṭṭhakanipātapāḷi
|
Aṭṭhakanipāta-aṭṭhakathā
|
Chương
VIII –
Tám Pháp
|
4. Dānavaggo
|
4. Dānavaggo
|
IV. Phẩm Bố Thí
|
1. Paṭhamadānasuttaṃ
31.[dī. ni. 3.336] ‘‘Aṭṭhimāni ,
bhikkhave, dānāni. Katamāni aṭṭha? Āsajja dānaṃ deti, bhayā dānaṃ deti,
‘adāsi me’ti dānaṃ deti, ‘dassati me’ti dānaṃ deti, ‘sāhu dāna’nti dānaṃ
deti, ‘ahaṃ pacāmi, ime na pacanti; nārahāmi pacanto apacantānaṃ dānaṃ
adātu’nti dānaṃ deti, ‘imaṃ me dānaṃ dadato kalyāṇo kittisaddo
abbhuggacchatī’ti dānaṃ deti, cittālaṅkāracittaparikkhāratthaṃ dānaṃ
deti. Imāni kho, bhikkhave, aṭṭha dānānī’’ti. Paṭhamaṃ.
|
(I) (31) Bố Thí (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này. Thế nào là tám?
2. V́ có người đến, nên bố thí; v́ sợ hăi, nên bố thí; v́ nghĩ rằng:
"Người ấy đă cho ta, nên bố thí; V́ nghĩ rằng: "Người ấy sẽ cho ta, nên
bố thí; v́ nghĩ rằng: "Bố thí là tốt", nên bố thí; v́ nghĩ rằng: "Ta
nấu, những người này không nấu. Thật Ta không xứng đáng là người nấu lại
không cho người không nấu", nên bố thí; v́ nghĩ rằng: "Do ta cho bố thí
này, nên tiếng tốt được truyền đi", nên bố thí; v́ trang nghiêm tâm,
trang bị tâm, nên bố thí.
Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này.
|
1. Paṭhamadānasuttavaṇṇanā
31.
Catutthassa paṭhame āsajja dānaṃ detīti patvā dānaṃ deti. Āgataṃ disvā taṃ
muhuttaṃyeva nisīdāpetvā sakkāraṃ katvā dānaṃ deti, dassāmīti na
kilameti. Bhayāti
‘‘ayaṃ adāyako akārako’’ti garahabhayā, apāyabhayā vā. Adāsimeti
mayhaṃ pubbe esa idaṃ nāma adāsīti deti. Dassati
meti anāgate idaṃ nāma dassatīti deti. Sāhu dānanti dānaṃ nāma sādhu sundaraṃ buddhādīhi
paṇḍitehi pasatthanti deti. Cittālaṅkāracittaparikkhāratthaṃ dānaṃ detīti
samathavipassanācittassa alaṅkāratthañceva parikkhāratthañca deti.
Dānañhi cittaṃ muduṃ karoti. Yena laddho, so ‘‘laddhaṃ me’’ti muducitto
hoti. Yena dinnaṃ, sopi ‘‘dinnaṃ mayā’’ti muducitto hoti. Iti ubhinnaṃ
cittaṃ muduṃ karoti. Teneva ‘‘adantadamana’’nti vuccati. Yathāha –
‘‘Adantadamanaṃ dānaṃ, adānaṃ dantadūsakaṃ;
Dānena piyavācāya, unnamanti namanti cā’’ti.
Imesu pana aṭṭhasu dānesu cittālaṅkāradānameva uttamanti.
|
2. Dutiyadānasuttaṃ
32.
[kathā. 480] ‘‘Saddhā
hiriyaṃ kusalañca dānaṃ,
Dhammā ete
sappurisānuyātā;
Etañhi maggaṃ diviyaṃ
vadanti,
Etena hi gacchati devaloka’’nti. dutiyaṃ;
|
2. Dutiyadānasuttavaṇṇanā
32.
Dutiye saddhāti
yāya saddhāya dānaṃ deti, sā saddhā. Hiriyanti yāya hiriyā dānaṃ deti, sāva adhippetā. Kusalañca
dānanti anavajjañca dānaṃ. Diviyanti divaṅgamaṃ.
|
(II) (32) Bố Thí (2)
Tín, tàm và thiện thí
Những pháp thiện sĩ cầu
Đường này gọi Thiện đạo
Đường này đi Thiên giới
|
3. Dānavatthusuttaṃ
33. ‘‘Aṭṭhimāni , bhikkhave, dānavatthūni.
Katamāni aṭṭha? Chandā dānaṃ deti, dosā dānaṃ deti, mohā dānaṃ deti,
bhayā dānaṃ deti, ‘dinnapubbaṃ katapubbaṃ pitupitāmahehi, nārahāmi
porāṇaṃ kulavaṃsaṃ hāpetu’nti dānaṃ deti, ‘imāhaṃ dānaṃ datvā kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapajjissāmī’ti dānaṃ deti, ‘imaṃ me dānaṃ dadato cittaṃ pasīdati,
attamanatā somanassaṃ upajāyatī’ti dānaṃ deti,
cittālaṅkāracittaparikkhāratthaṃ dānaṃ deti. Imāni kho, bhikkhave, aṭṭha
dānavatthūnī’’ti. Tatiyaṃ.
|
3. Dānavatthusuttavaṇṇanā
33.
Tatiye dānavatthūnīti
dānakāraṇāni. Chandā
dānaṃ detīti pemena dānaṃ deti. Dosāti dosena
kuddho hutvā yaṃ atthi, taṃ vegena gaṇhitvā deti. Mohāti
mohena mūḷho deti. Bhayāti
garahabhayena vā apāyabhayena vā, tassa tasseva vā pana bhayena deti. Kulavaṃsanti
kulapaveṇiṃ.
|
(III) (33) Căn Bản Để Bố Thí
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám căn bản để bố thí. Thế nào là tám?
2. V́ ḷng dục nên bố thí; v́ sân hận nên bố thí; v́ ngu si nên bố thí;
v́ sợ hăi nên bố thí; v́ nghĩ rằng: "Trước tổ tiên đă bố thí, trước đă
làm. Ta không xứng đáng là người để truyền thống này bị bỏ phế" nên bố
thí; v́ nghĩ rằng: "Sau khi cho bố thí này, khi thân hoại mạng chung, sẽ
được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cơi đời này" nên bố thí; v́ nghĩ
rằng: "Khi ta bố thí này, tâm được tịnh tín, do hân hoan, hỷ được sanh"
nên bố thí; để trang nghiêm tâm, trang bị tâm, nên bố thí.
Này các Tỷ-kheo, có tám căn bản để bố thí này.
|
4. Khettasuttaṃ
34. ‘‘Aṭṭhaṅgasamannāgate , bhikkhave, khette
bījaṃ vuttaṃ na mahapphalaṃ hoti na mahassādaṃ na phātiseyyaṃ [na phātiseyyanti (sī. syā. ka.), na phātiseyyā (katthaci)].
Kathaṃ aṭṭhaṅgasamannāgate? Idha, bhikkhave, khettaṃ unnāmaninnāmi ca
hoti, pāsāṇasakkharikañca hoti, ūsarañca hoti, na ca gambhīrasitaṃ hoti,
na āyasampannaṃ hoti, na apāyasampannaṃ hoti, na mātikāsampannaṃ hoti,
na mariyādasampannaṃ hoti. Evaṃ aṭṭhaṅgasamannāgate, bhikkhave, khette
bījaṃ vuttaṃ na mahapphalaṃ hoti na mahassādaṃ na phātiseyyaṃ.
‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave, aṭṭhaṅgasamannāgatesu samaṇabrāhmaṇesu dānaṃ
dinnaṃ na mahapphalaṃ hoti na mahānisaṃsaṃ na mahājutikaṃ na
mahāvipphāraṃ. Kathaṃ aṭṭhaṅgasamannāgatesu? Idha, bhikkhave,
samaṇabrāhmaṇā micchādiṭṭhikā honti, micchāsaṅkappā, micchāvācā,
micchākammantā, micchāājīvā, micchāvāyāmā, micchāsatino,
micchāsamādhino. Evaṃ aṭṭhaṅgasamannāgatesu, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇesu
dānaṃ dinnaṃ na mahapphalaṃ hoti na mahānisaṃsaṃ na mahājutikaṃ na
mahāvipphāraṃ.
‘‘Aṭṭhaṅgasamannāgate, bhikkhave, khette bījaṃ vuttaṃ mahapphalaṃ hoti
mahassādaṃ phātiseyyaṃ. Kathaṃ
aṭṭhaṅgasamannāgate? Idha, bhikkhave, khettaṃ anunnāmāninnāmi ca hoti,
apāsāṇasakkharikañca hoti, anūsarañca hoti, gambhīrasitaṃ hoti,
āyasampannaṃ hoti, apāyasampannaṃ hoti, mātikāsampannaṃ hoti,
mariyādasampannaṃ hoti. Evaṃ aṭṭhaṅgasamannāgate, bhikkhave, khette
bījaṃ vuttaṃ mahapphalaṃ hoti mahassādaṃ phātiseyyaṃ.
‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave, aṭṭhaṅgasamannāgatesu samaṇabrāhmaṇesu dānaṃ
dinnaṃ mahapphalaṃ hoti mahānisaṃsaṃ mahājutikaṃ mahāvipphāraṃ. Kathaṃ
aṭṭhaṅgasamannāgatesu? Idha, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā sammādiṭṭhikā
honti, sammāsaṅkappā, sammāvācā, sammākammantā, sammāājīvā, sammāvāyāmā,
sammāsatino, sammāsamādhino. Evaṃ aṭṭhaṅgasamannāgatesu, bhikkhave,
samaṇabrāhmaṇesu dānaṃ dinnaṃ mahapphalaṃ hoti mahānisaṃsaṃ mahājutikaṃ
mahāvipphāra’’nti.
‘‘Yathāpi khette
sampanne,
pavuttā bījasampadā;
Deve sampādayantamhi [sañjāyantamhi
(ka.)],
hoti dhaññassa sampadā.
‘‘Anītisampadā hoti,
virūḷhī bhavati
sampadā;
Vepullasampadā hoti,
phalaṃ ve hoti sampadā.
‘‘Evaṃ sampannasīlesu,
dinnā bhojanasampadā;
Sampadānaṃ upaneti,
sampannaṃ hissa taṃ
kataṃ.
‘‘Tasmā
sampadamākaṅkhī, sampannatthūdha puggalo;
Sampannapaññe sevetha,
evaṃ ijjhanti sampadā.
‘‘Vijjācaraṇasampanne,
laddhā cittassa
sampadaṃ;
Karoti kammasampadaṃ,
labhati catthasampadaṃ.
‘‘Lokaṃ ñatvā
yathābhūtaṃ, pappuyya diṭṭhisampadaṃ;
Maggasampadamāgamma,
yāti sampannamānaso.
‘‘Odhunitvā malaṃ
sabbaṃ,
patvā nibbānasampadaṃ;
Muccati sabbadukkhehi, sā hoti sabbasampadā’’ti. catutthaṃ;
|
4. Khettasuttavaṇṇanā
34.
Catutthe na
mahapphalaṃ hotīti dhaññaphalena mahapphalaṃ na hoti. Na
mahassādanti yampissa phalaṃ hoti, tassa assādo na mahā
hoti mandassādaṃ na madhuraṃ. Na
phātiseyyanti seyyāpissa na hoti vuḍḍhi, tassa mahantaṃ
vīhithambhasannivesaṃ na hotīti attho. Unnāmaninnāmīti
thalaninnavasena visamatalaṃ. Tattha thale udakaṃ na saṇṭhāti, ninne
atibahu tiṭṭhati. Pāsāṇasakkharikanti
pattharitvā ṭhitapiṭṭhipāsāṇehi ca khuddakapāsāṇehi ca sakkharāhi ca
samannāgataṃ. Ūsaranti
ubbhinnaloṇaṃ. Na
ca gambhīrasitanti thaddhabhūmitāya gambhīrānugataṃ,
naṅgalamaggaṃ katvā kasituṃ na sakkā hoti, uttānanaṅgalamaggameva hoti. Na
āyasampannanti na udakāgamanasampannaṃ. Na apāyasampannanti pacchābhāge
udakaniggamanamaggasampannaṃ na hoti. Na
mātikāsampannanti na khuddakamahantīhi udakamātikāhi
sampannaṃ hoti . Na
mariyādasampannanti na kedāramariyādāhi sampannaṃ. Na mahapphalantiādīni sabbāni vipākaphalavaseneva
veditabbāni.
Sampanneti
paripuṇṇe sampattiyutte. Pavuttā
bījasampadāti sampannaṃ bījaṃ ropitaṃ. Devesampādayantamhīti
deve sammā vassante. Anītisampadā hotīti kīṭakimiādipāṇakaītiyā abhāvo ekā
sampadā hoti. Virūḷhīti
vaḍḍhi dutiyā sampadā hoti. Vepullanti vipulabhāvo tatiyā sampadā hoti. Phalanti
paripuṇṇaphalaṃ catutthī sampadā hoti. Sampannasīlesūti
paripuṇṇasīlesu. Bhojanasampadāti
sampannaṃ vividhabhojanaṃ. Sampadānanti tividhaṃ kusalasampadaṃ. Upanetīti
sā bhojanasampadā upanayati. Kasmā? Sampannañhissa taṃ kataṃ,yasmāssa taṃ katakammaṃ sampannaṃ
paripuṇṇanti attho. Sampannatthūdhāti sampanno atthu idha. Vijjācaraṇasampannoti
tīhi vijjāhi ca pañcadasahi caraṇadhammehi ca samannāgato. Laddhāti
evarūpo puggalo cittassa sampadaṃ avekallaparipuṇṇabhāvaṃ labhitvā. Karoti
kammasampadanti paripuṇṇakammaṃ karoti. Labhati catthasampadanti atthañca paripuṇṇaṃ labhati. Diṭṭhisampadanti
vipassanādiṭṭhiṃ. Maggasampadanti sotāpattimaggaṃ. Yāti
sampannamānasoti paripuṇṇacitto hutvā arahattaṃ yāti. Sā
hoti sabbasampadāti sā sabbadukkhehi vimutti sabbasampadā
nāma hotīti.
|
(IV) (34) Thửa Ruộng
1.- Này các Tỷ-kheo, hột giống được gieo vào thửa ruộng thành tựu tám
chi phần được xem là không quả lớn, không vị ngọt lớn, không phải địa
điểm tăng thịnh. Thế nào là thành tựu tám chi phần?
2. Này các Tỷ-kheo, ở đây thửa ruộng lồi lên lơm xuống, đầy đá và sạn,
đất mặn, không có bề sâu, không có chỗ nước chảy ra, không có chỗ nước
chảy vào, không có nước chảy, không có bờ đê. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
hột giống được gieo vào thửa ruộng thành tựu được tám chi phần được xem
là không quả lớn, không vị ngọt lớn, không phải địa điểm tăng thịnh.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bố thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu
tám chi phần, không có quả lớn, không lợi ích lớn, không có rung cảm
lớn. Thế nào là thành tựu tám chi phần?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Sa-môn, các Bà-la-môn có tà kiến, tà tư
duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, bố thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi
phần, không có quả lớn, không lợi ích lớn, không có rung cảm lớn.
4. Này các Tỷ-kheo, hột giống được gieo vào thửa ruộng thành tựu tám chi
phần được xem là có quả lớn, có vị ngọt lớn, là địa điểm tăng thịnh. Thế
nào là thành tựu tám chi phần?
5. Này các Tỷ-kheo, ở đây thửa ruộng không lồi lên lơm xuống, không có
đầy đá và sạn, không có đất mặn, có bề sâu, có chỗ nước chảy ra, có chỗ
nước chảy vào, có nước chảy, có bờ đê. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hột
giống được gieo vào thửa ruộng thành tựu tám chi phần được xem là có quả
lớn, có vị ngọt lớn, là địa điểm tăng thịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
bố thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, có quả lớn,
lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có rung cảm lớn. Thế nào là thành tựu tám
chi phần?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Sa-môn, các Bà-la-môn có chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định. Như vậy, này các Tỷ-kheo, bố thí giữa những Sa-môn,
Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, có quả lớn, lợi ích lớn, có rực rỡ
lớn, có rung cảm lớn.
Khi ruộng được đầy đủ
Hột giống gieo đầy đủ
Khi mưa xuống đầy đủ
Lúa gặt được đầy đủ
Tai họa không có mặt
Tăng trưởng được đầy đủ
Rộng lớn được đầy đủ
Kết quả được đầy đủ
Cũng vậy, sự bố thí
Giữa những người đủ giới
Và vật liệu bố thí
Cũng được sắm đầy đủ
Đưa đến sự đầy đủ
V́ sở hành đầy đủ
Vậy ai muốn đầy đủ
Phải tự ḿnh đầy đủ
Phục vụ người đủ tuệ
Như vậy thành công đủ
Đầy đủ trí và đức
Với tâm được đầy đủ
Làm nghiệp được đầy đủ
Lợi ích được đầy đủ
Như thật biết cuộc đời
Đạt được kiến đầy đủ
Đường đầy đủ đi đến
Tiến đến ư đầy đủ
Vất bỏ mọi cấu uế
Đạt Niết-bàn cụ túc
Giải thoát mọi khổ đau
Tức đầy đủ vẹn toàn.
|
5. Dānūpapattisuttaṃ
35.[dī. ni. 3.337] ‘‘Aṭṭhimā,
bhikkhave, dānūpapattiyo. Katamā aṭṭha? Idha, bhikkhave, ekacco dānaṃ
deti samaṇassa vā brāhmaṇassa vā annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃmālāgandhavilepanaṃ
seyyāvasathapadīpeyyaṃ. So yaṃ deti taṃ paccāsīsati [paccāsiṃsati (sī. syā. kaṃ. pī.)].
So passati khattiyamahāsāle vā brāhmaṇamahāsāle vā gahapatimahāsāle vā
pañcahi kāmaguṇehi samappite samaṅgībhūte paricārayamāne. Tassa evaṃ
hoti – ‘aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā khattiyamahāsālānaṃ vā
brāhmaṇamahāsālānaṃ vā gahapatimahāsālānaṃ vā sahabyataṃ
upapajjeyya’nti! So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ
bhāveti. Tassa taṃ cittaṃ hīne vimuttaṃ [hīnedhimuttaṃ
(syā. pī.) vimuttanti adhimuttaṃ, vimuttanti vā vissaṭṭhaṃ
(ṭīkāsaṃvaṇṇanā)],
uttari abhāvitaṃ, tatrūpapattiyā saṃvattati. Kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
khattiyamahāsālānaṃ vā brāhmaṇamahāsālānaṃ vā gahapatimahāsālānaṃ vā
sahabyataṃ upapajjati. Tañca kho sīlavato vadāmi, no dussīlassa.
Ijjhati, bhikkhave, sīlavato cetopaṇidhi visuddhattā.
‘‘Idha pana, bhikkhave, ekacco dānaṃ deti samaṇassa
vā brāhmaṇassa vā annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ
seyyāvasathapadīpeyyaṃ. So yaṃ deti taṃ paccāsīsati. Tassa sutaṃ hoti –
‘cātumahārājikā [cātummahārājikā
(sī. syā. kaṃ. pī.)] devā dīghāyukā vaṇṇavanto sukhabahulā’ti.
Tassa evaṃ hoti – ‘aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
cātumahārājikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya’nti. So taṃ cittaṃ
dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa taṃ cittaṃ hīne
vimuttaṃ, uttari abhāvitaṃ, tatrūpapattiyā saṃvattati. Kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjati. Tañca kho
sīlavato vadāmi, no dussīlassa. Ijjhati, bhikkhave, sīlavato cetopaṇidhi
visuddhattā.
‘‘Idha pana, bhikkhave, ekacco dānaṃ deti samaṇassa vā brāhmaṇassa vā
annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ seyyāvasathapadīpeyyaṃ. So
yaṃ deti taṃ paccāsīsati. Tassa sutaṃ hoti – tāvatiṃsā devā…pe… yāmā
devā… tusitā devā… nimmānaratī devā… paranimmitavasavattī devā dīghāyukā
vaṇṇavanto sukhabahulāti. Tassa evaṃ hoti – ‘aho vatāhaṃ kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya’nti.
So taṃ cittaṃ dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti , taṃ
cittaṃ bhāveti. Tassa taṃ cittaṃ hīne vimuttaṃ, uttari abhāvitaṃ,
tatrūpapattiyā saṃvattati. Kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjati. Tañca kho
sīlavato vadāmi, no dussīlassa. Ijjhati, bhikkhave, sīlavato cetopaṇidhi
visuddhattā.
‘‘Idha pana, bhikkhave, ekacco dānaṃ deti
samaṇassa vā brāhmaṇassa vā annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ
mālāgandhavilepanaṃ seyyāvasathapadīpeyyaṃ. So yaṃ deti taṃ paccāsīsati.
Tassa sutaṃ hoti – ‘brahmakāyikā devā dīghāyukā vaṇṇavanto
sukhabahulā’ti. Tassa evaṃ hoti – ‘aho vatāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā brahmakāyikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya’nti. So taṃ cittaṃ
dahati, taṃ cittaṃ adhiṭṭhāti, taṃ cittaṃ bhāveti. Tassa taṃ cittaṃ hīne
vimuttaṃ, uttari abhāvitaṃ, tatrūpapattiyā saṃvattati. Kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā brahmakāyikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjati. Tañca kho
sīlavato vadāmi, no dussīlassa; vītarāgassa, no sarāgassa. Ijjhati,
bhikkhave, sīlavato cetopaṇidhi vītarāgattā. Imā kho, bhikkhave, aṭṭha
dānūpapattiyo’’ti. Pañcamaṃ.
|
5. Dānūpapattisuttavaṇṇanā
35.
Pañcame dānūpapattiyoti
dānapaccayā upapattiyo. Dahatīti ṭhapeti. Adhiṭṭhātīti
tasseva vevacanaṃ. Bhāvetīti
vaḍḍheti. Hīne
vimuttanti hīnesu pañcasu kāmaguṇesu vimuttaṃ. Uttari
abhāvitanti tato uttarimaggaphalatthāya abhāvitaṃ. Tatrūpapattiyā
saṃvattatīti yaṃ ṭhānaṃ patthetvā kusalaṃ kataṃ, tattha
nibbattanatthāya saṃvattati. Vītarāgassāti
maggena vā samucchinnarāgassa samāpattiyā vā vikkhambhitarāgassa.
Dānamatteneva hi brahmaloke nibbattituṃ na sakkā, dānaṃ pana
samādhivipassanācittassa alaṅkāraparivāraṃ hoti. Tato dānena muducitto
brahmavihāre bhāvetvā brahmaloke nibbattati. Tena vuttaṃ – ‘‘vītarāgassa
no sarāgassā’’ti.
|
(V) (35) Thọ Sanh Do Bố Thí
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám thọ sanh do bố thí. Thế nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với
đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, ṿng hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm, trú
xứ, đèn đuốc. Người ấy bố thí và mong hưởng quả. Thấy các Sát-đế-lỵ đại
phú hay các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại phú, sung túc, đầy
đủ, thọ hưởng năm dục trưởng dưỡng, người ấy suy nghĩ như sau: "Mong
rằng, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với Sát-đế-lỵ đại
phú, hay với Bà-la-môn đại phú, hay với gia chủ đại phú ". Người ấy móng
tâm như vậy, trú tâm như vậy, tu tâm như vậy, tâm người ấy hướng đến hạ
liệt, không tu tập hướng thượng, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
cọng trú với Sát-đế-lỵ đại phú, hay với Bà-la-môn đại phú, hay với gia
chủ đại phú. Ta nói rằng: "Người ấy là người giữ giới, không phải là
người ác giới". Này các Tỷ-kheo, người giữ giới thành công, v́ tâm hướng
đến thanh tịnh.
3-4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn
với đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, ṿng hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm,
trú xứ, đèn đuốc. Người ấy bố thí và mong hưởng quả. Nghe rằng: "Bốn
Thiên vương thiên sống lâu, có dung sắc, được nhiều an lạc", người ấy
suy nghĩ như sau: "Mong rằng khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng
trú với chư Thiên ở Bốn Thiên vương ... với chư Thiên ở cơi trời Ba mươi
ba ... với chư Thiên ở cơi Trời Dạ-ma ... với chư Thiên ở cơi Trời
Đâu-xuất ... với chư Thiên ở cơi Trời Hóa lạc thiên... với chư Thiên ở
cơi Trời Tha hóa Tự tại thiên ... "Người ấy móng tâm như vậy, trú tâm
như vậy, tu tâm như vậy, tâm người ấy hướng đến hạ liệt, không tu tập
hướng thượng, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư
Thiên ở cơi Bốn thiên vương ... ở cơi Tha hóa Tự tại thiên, hay với
Bà-la-môn đại phú, hay với gia chủ đại phú. Ta nói rằng: "Người ấy là
người giữ giới, không phải là người ác giới". Này các Tỷ-kheo, người giữ
giới thành công, v́ tâm hướng đến thanh tịnh.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn với đồ
ăn, đồ uống... Nghe rằng: ": "Chư Thiên ở Phạm chúng thiên sống lâu, có
dung sắc, được nhiều an lạc", người ấy suy nghĩ như sau: "Mong rằng.."
....hay với gia chủ đại phú. Ta nói rằng: "Người ấy là người giữ giới,
không phải là người ác giới, là người ly tham, không phải là người có
tham". Này các Tỷ-kheo, người giữ giới thành công, v́ tâm hướng đến
thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, người giữ giới thành công, v́ tâm hướng đến
ly tham. Này các Tỷ-kheo, tám pháp này là tám pháp thọ sanh do bố thí.
|
6. Puññakiriyavatthusuttaṃ
36. ‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, puññakiriyavatthūni. Katamāni tīṇi?
Dānamayaṃ puññakiriyavatthu [puññakiriyavatthuṃ
(sī. pī.) evamuparipi], sīlamayaṃ puññakiriyavatthu, bhāvanāmayaṃ puññakiriyavatthu.
Idha, bhikkhave, ekaccassa dānamayaṃ puññakiriyavatthu parittaṃ kataṃ
hoti, sīlamayaṃ puññakiriyavatthu parittaṃ kataṃ hoti, bhāvanāmayaṃ
puññakiriyavatthuṃ [puññakiriyavatthu
(syā.)] nābhisambhoti. So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā manussadobhagyaṃ
upapajjati.
‘‘Idha pana, bhikkhave, ekaccassa dānamayaṃ puññakiriyavatthu mattaso
kataṃ hoti, sīlamayaṃ puññakiriyavatthu mattaso kataṃ hoti, bhāvanāmayaṃ
puññakiriyavatthuṃ nābhisambhoti. So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
manussasobhagyaṃ upapajjati.
‘‘Idha pana, bhikkhave ,
ekaccassa dānamayaṃ puññakiriyavatthu adhimattaṃ kataṃ hoti, sīlamayaṃ
puññakiriyavatthu adhimattaṃ kataṃ hoti,
bhāvanāmayaṃ puññakiriyavatthuṃ nābhisambhoti. So kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjati. Tatra,
bhikkhave, cattāro mahārājāno dānamayaṃ puññakiriyavatthuṃ atirekaṃ
karitvā, sīlamayaṃ puññakiriyavatthuṃ atirekaṃ karitvā, cātumahārājike
deve dasahi ṭhānehi adhigaṇhanti – dibbena āyunā, dibbena vaṇṇena,
dibbena sukhena, dibbena yasena, dibbena ādhipateyyena, dibbehi rūpehi,
dibbehi saddehi, dibbehi gandhehi, dibbehi rasehi, dibbehi phoṭṭhabbehi.
‘‘Idha pana, bhikkhave, ekaccassa dānamayaṃ
puññakiriyavatthu adhimattaṃ kataṃ hoti, sīlamayaṃ puññakiriyavatthu
adhimattaṃ kataṃ hoti, bhāvanāmayaṃ puññakiriyavatthuṃ nābhisambhoti. So
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tāvatiṃsānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjati.
Tatra, bhikkhave, sakko devānamindo dānamayaṃ puññakiriyavatthuṃ
atirekaṃ karitvā sīlamayaṃ puññakiriyavatthuṃ atirekaṃ karitvā tāvatiṃse
deve dasahi ṭhānehi adhigaṇhāti – dibbena āyunā…pe… dibbehi
phoṭṭhabbehi.
‘‘Idha pana, bhikkhave, ekaccassa dānamayaṃ puññakiriyavatthu adhimattaṃ
kataṃ hoti, sīlamayaṃ puññakiriyavatthu adhimattaṃ kataṃ hoti,
bhāvanāmayaṃ puññakiriyavatthuṃ nābhisambhoti. So kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā yāmānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjati. Tatra, bhikkhave, suyāmo
devaputto dānamayaṃ puññakiriyavatthuṃ atirekaṃ karitvā ,
sīlamayaṃ puññakiriyavatthuṃ atirekaṃ karitvā, yāme deve dasahi ṭhānehi
adhigaṇhāti – dibbena āyunā…pe… dibbehi phoṭṭhabbehi.
‘‘Idha pana, bhikkhave, ekaccassa dānamayaṃ puññakiriyavatthu adhimattaṃ
kataṃ hoti, sīlamayaṃ puññakiriyavatthu adhimattaṃ kataṃ hoti,
bhāvanāmayaṃ puññakiriyavatthuṃ nābhisambhoti. So kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā tusitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjati. Tatra ,
bhikkhave, santusito devaputto dānamayaṃ puññakiriyavatthuṃ atirekaṃ
karitvā, sīlamayaṃ puññakiriyavatthuṃ atirekaṃ karitvā, tusite deve
dasahi ṭhānehi adhigaṇhāti – dibbena āyunā…pe… dibbehi phoṭṭhabbehi.
‘‘Idha pana, bhikkhave, ekaccassa dānamayaṃ
puññakiriyavatthu adhimattaṃ kataṃ hoti, sīlamayaṃ puññakiriyavatthu
adhimattaṃ kataṃ hoti, bhāvanāmayaṃ puññakiriyavatthuṃ nābhisambhoti. So
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā nimmānaratīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjati.
Tatra, bhikkhave, sunimmito devaputto dānamayaṃ puññakiriyavatthuṃ
atirekaṃ karitvā, sīlamayaṃ puññakiriyavatthuṃ atirekaṃ karitvā,
nimmānaratīdeve dasahi ṭhānehi adhigaṇhāti – dibbena āyunā…pe… dibbehi
phoṭṭhabbehi.
‘‘Idha pana, bhikkhave, ekaccassa dānamayaṃ
puññakiriyavatthu adhimattaṃ kataṃ hoti, sīlamayaṃ puññakiriyavatthu
adhimattaṃ kataṃ hoti, bhāvanāmayaṃ puññakiriyavatthuṃ nābhisambhoti. So
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ
upapajjati. Tatra, bhikkhave, vasavattī devaputto dānamayaṃ
puññakiriyavatthuṃ atirekaṃ karitvā, sīlamayaṃ
puññakiriyavatthuṃ atirekaṃ karitvā, paranimmitavasavattīdeve dasahi
ṭhānehi adhigaṇhāti – dibbena āyunā, dibbena vaṇṇena, dibbena sukhena,
dibbena yasena, dibbena ādhipateyyena, dibbehi rūpehi, dibbehi saddehi,
dibbehi gandhehi, dibbehi rasehi, dibbehi phoṭṭhabbehi. Imāni kho,
bhikkhave, tīṇi puññakiriyavatthūnī’’ti. Chaṭṭhaṃ.
|
6. Puññakiriyavatthusuttavaṇṇanā
36.
Chaṭṭhe puññakiriyāni ca tāni tesaṃ tesaṃ
ānisaṃsānaṃ vatthūni cāti puññakiriyavatthūni.
Dānādīnañhi lakkhaṇe cittaṃ ṭhapetvā ‘‘evarūpaṃ nāma amhehi dānaṃ
dātabbaṃ, sīlaṃ rakkhitabbaṃ, bhāvanā bhāvetabbā’’ti sattā puññāni
karonti. Dānameva dānamayaṃ, dānacetanāsu
vā purimacetanāto nipphannā sanniṭṭhāpakacetanā dānamayaṃ sīlādīhi
sīlamayādīni viya. Sesadvayesupi eseva nayo. Parittaṃ
kataṃ hotīti thokaṃ mandaṃ kataṃ hoti. Nābhisambhotīti na nipphajjati. Akataṃ
hotīti bhāvanāyayogoyeva anāraddho hotīti attho. Manussadobhagyanti manussesu
sampattirahitaṃ pañcavidhaṃ nīcakulaṃ. Upapajjatīti
paṭisandhivasena upagacchati, tattha nibbattatīti attho. Mattaso
katanti pamāṇena kataṃ, thokaṃ na bahu. Manussasobhagyanti manussesu subhagabhāvaṃ
tividhakulasampattiṃ. Adhimattanti adhikappamāṇaṃ balavaṃ vā. Adhigaṇhantīti
abhibhavitvā gaṇhanti, visiṭṭhatarā jeṭṭhakā hontīti attho.
|
(VI) (36) Phước Nghiệp Sự
1.- Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản làm phước. Thế nào là ba?
2. Căn bản làm phước do bố thí, căn bản làm phước do giới đức, căn bản
làm phước do tu tập.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí
trên một quy mô nhỏ, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô nhỏ,
căn bản làm phước do tu tập trên một quy mô nhỏ. Người ấy, sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh làm người không may mắn.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí
trên một quy mô vừa, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô vừa,
không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh làm người có may mắn.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí
trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to
lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi
thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam
thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka sau khi làm thật nhiều
căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước
nghiệp do giới đức, vượt qua Bốn thiên vương trên mười điểm: tuổi thọ
chư Thiên, dung sắc chư Thiên, an lạc chư Thiên, danh tiếng chư Thiên,
Tăng thượng lực chư Thiên, thiên sắc, thiên hương, thiên vị, thiên xúc.
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí
trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to
lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi
thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam
thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka sau khi làm thật nhiều
căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước
nghiệp do giới đức, vượt qua chư Thiên ở Tàvatimsa trên mười điểm: tuổi
thọ chư Thiên, dung sắc chư Thiên, an lạc chư Thiên, danh tiếng chư
Thiên, Tăng thượng lực chư Thiên, thiên sắc, thiên hương, thiên vị,
thiên xúc.
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí
trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to
lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi
thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Yàma thiên. Tại
đây, này các Tỷ-kheo, Thiên tử Suyàma sau khi làm thật nhiều căn bản
phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do
giới đức, vượt qua chư Thiên ở Yàma trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên,
... thiên vị, thiên xúc.
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí
trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to
lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi
thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tusità thiên.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên tử Santusità, sau khi làm thật nhiều căn
bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp
do giới đức, vượt qua chư Thiên ở Tusità trên mười điểm: tuổi thọ chư
Thiên, ... thiên vị, thiên xúc.
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí
trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to
lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi
thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Hóa lạc thiên.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên tử Sunimmita, sau khi làm thật nhiều căn
bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp
do giới đức, vượt qua chư Thiên ở Hóa lạc thiên trên mười điểm: tuổi thọ
chư Thiên, ... thiên vị, thiên xúc.
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí
trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to
lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi
thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tha hóa tự tại
thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên tử Vasavatt́, sau khi làm thật
nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản
phước nghiệp do giới đức, vượt qua chư Thiên ở Tha hóa Tự tại thiên trên
mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, ... thiên vị, thiên xúc.
Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản phước nghiệp này.
|
7. Sappurisadānasuttaṃ
37. ‘‘Aṭṭhimāni, bhikkhave, sappurisadānāni. Katamāni aṭṭha? Suciṃ deti,
paṇītaṃ deti, kālena deti, kappiyaṃ deti, viceyya deti, abhiṇhaṃ deti,
dadaṃ cittaṃ pasādeti, datvā attamano hoti. Imāni kho, bhikkhave, aṭṭha
sappurisadānānī’’ti.
‘‘Suciṃ paṇītaṃ kālena,
kappiyaṃ pānabhojanaṃ;
Abhiṇhaṃ dadāti dānaṃ, sukhettesu [sukhette (sī. pī.)] brahmacārisu.
‘‘Neva [na
ca (sī. pī.)] vippaṭisārissa,
cajitvā āmisaṃ bahuṃ;
Evaṃ dinnāni dānāni,
vaṇṇayanti vipassino.
‘‘Evaṃ yajitvā medhāvī,
saddho muttena cetasā;
Abyābajjhaṃ [abyāpajjhaṃ (ka.) a. ni. 4.40; 6.37] sukhaṃ
lokaṃ, paṇḍito upapajjatī’’ti. sattamaṃ;
|
7. Sappurisadānasuttavaṇṇanā
37.
Sattame sucinti
parisuddhaṃ vaṇṇasampannaṃ deti. Paṇītanti rasūpapannaṃ. Kālenāti
yuttapattakālena. Kappiyanti yaṃ kappiyaṃ, taṃ deti. Viceyya
detīti ‘‘imassa dinnaṃ mahapphalaṃ bhavissati, imassa na
mahapphala’’nti evaṃ paṭiggāhakapariyesanavasena dānaṃ vā
paṇidhāyavasena dānaṃ vā vicinitvā deti.
|
(VII) (37) Người Chân Nhân (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này của bậc chân nhân. Thế nào là
tám?
2. Cho vật trong sạch; cho vật thù diệu; cho đúng thời; cho vật thích
ứng; cho với sự cẩn thận; cho luôn luôn; tâm cho được tịnh tín; sau khi
cho được hoan hỷ.
Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này của bậc chân nhân:
Trong sạch và thù diệu
Đúng thời và thích ứng
Đồ uống và đồ ăn
Luôn luôn làm bố thí
Trong các ruộng tốt lành
Sống theo đời Phạm hạnh
Không có ǵ hối tiếc
Bố thí nhiều tài vật
Những bố thí như vậy
Được bậc trí tán thán
Bậc Trí thí như vậy
Với tâm tín, giải thoát
Không hại, tâm an lạc
Bậc trí sanh ở đời.
|
8. Sappurisasuttaṃ
38. ‘‘Sappuriso , bhikkhave, kule jāyamāno
bahuno janassa atthāya hitāya sukhāya hoti – mātāpitūnaṃ atthāya hitāya
sukhāya hoti, puttadārassa atthāya hitāya sukhāya hoti ,
dāsakammakaraporisassa atthāya hitāya sukhāya hoti, mittāmaccānaṃ
atthāya hitāya sukhāya hoti, pubbapetānaṃ atthāya hitāya sukhāya hoti,
rañño atthāya hitāya sukhāya hoti, devatānaṃ
atthāya hitāya sukhāya hoti, samaṇabrāhmaṇānaṃ atthāya hitāya sukhāya
hoti.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, mahāmegho sabbasassāni sampādento bahuno
janassa atthāya hitāya sukhāya [hitāya…pe… (syā. ka.)] hoti;
evamevaṃ kho, bhikkhave, sappuriso kule jāyamāno bahuno janassa atthāya
hitāya sukhāya hoti – mātāpitūnaṃ atthāya hitāya sukhāya hoti,
puttadārassa atthāya hitāya sukhāya hoti, dāsakammakaraporisassa atthāya
hitāya sukhāya hoti, mittāmaccānaṃ atthāya hitāya sukhāya hoti,
pubbapetānaṃ atthāya hitāya sukhāya hoti, rañño atthāya hitāya sukhāya hoti,
devatānaṃ atthāya hitāya sukhāya hoti, samaṇabrāhmaṇānaṃ atthāya hitāya
sukhāya hotī’’ti.
‘‘Bahūnaṃ [bahunnaṃ
(sī. pī.)] vata atthāya, sappañño gharamāvasaṃ;
Mātaraṃ pitaraṃ pubbe, rattindivamatandito.
‘‘Pūjeti sahadhammena,
pubbekatamanussaraṃ;
Anāgāre pabbajite, apace brahmacārayo [brahmacārino
(syā.)].
‘‘Niviṭṭhasaddho
pūjeti, ñatvā dhamme ca pesalo [pesale (ka.)];
Rañño hito devahito, ñātīnaṃ sakhinaṃ hito.
‘‘Sabbesaṃ [sabbesu
(ka.)] so [sa
(syā. pī. ka.)] hito
hoti, saddhamme suppatiṭṭhito;
Vineyya maccheramalaṃ, sa lokaṃ bhajate siva’’nti. aṭṭhamaṃ;
|
8. Sappurisasuttavaṇṇanā
38.
Aṭṭhame atthāyāti
atthatthāya. Hitāya
sukhāyāti hitatthāya sukhatthāya. Pubbapetānanti
paralokagatānaṃ ñātīnaṃ. Imasmiṃ sutte anuppanne buddhe cakkavattirājāno
bodhisattā paccekabuddhā labbhanti, buddhakāle buddhā ceva buddhasāvakā
ca. Yathāvuttānañhi etesaṃ atthāya hitāya sukhāya saṃvattanti. Bahunnaṃvata
atthāya, sappañño gharamāvasanti sappañño ghare vasanto
bahūnaṃ vata atthāya hoti. Pubbeti paṭhameva. Pubbekatamanussaranti mātāpitūnaṃ
pubbakāraguṇe anussaranto. Sahadhammenāti
sakāraṇena paccayapūjanena pūjeti. Apace brahmacārayoti brahmacārino apacayati, nīcavuttitaṃ
nesaṃ āpajjati. Pesaloti
piyasīlo.
|
(VIII) (38) Người Chân Nhân (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, bậc chân nhân sinh ra trong gia đ́nh nào, đem lại
lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho nhiều người; đem lại lợi ích, hạnh phúc,
an lạc cho cha mẹ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho vợ con; đem
lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho người phục vụ, người làm công; đem
lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho bạn bè thân hữu; đem lại lợi ích,
hạnh phúc, an lạc cho các hương linh đă mất; đem lại lợi ích, hạnh phúc,
an lạc cho vua chúa; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên;
đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho Sa-môn, Bà-la-môn.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cơn mưa lớn làm cho các loại mùa màng
đều thành tựu đầy đủ, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho nhiều
người. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Chân nhân sinh ra trong gia đ́nh
nào, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho nhiều người; đem lại lợi
ích, hạnh phúc, an lạc cho cha mẹ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc
cho vợ con; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho người phục vụ, người
làm công; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho bạn bè thân hữu; đem
lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho các hương linh đă mất; đem lại lợi
ích, hạnh phúc, an lạc cho vua chúa; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc
cho chư Thiên; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho Sa-môn, Bà-la-môn.
V́ lợi ích nhiều người
Bậc trí sống gia đ́nh
Không mệt mỏi ngày đêm
Cúng dường thật đúng pháp
Mẹ cha và tổ tiên
Nhớ ngày trước đă làm
Đối xuất gia, không nhà
Kính lễ bậc Phạm hạnh
Tin vững trú, cúng dường
Biến pháp, khéo xử sự
Là người đem lợi ích
Cho vua, cho chư Thiên
Là người đem lợi ích
Cho bà con, bè bạn
Là người đem lợi ích
Cho tất cả mọi người
Khéo an trú diệu pháp
Nhiếp xan tham cấu uế
Hưởng cuộc đời hạnh phúc.
|
9. Abhisandasuttaṃ
39. ‘‘Aṭṭhime , bhikkhave, puññābhisandā
kusalābhisandā sukhassāhārā sovaggikā sukhavipākā saggasaṃvattanikā,
iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya sukhāya saṃvattanti. Katame aṭṭha? Idha,
bhikkhave, ariyasāvako buddhaṃ saraṇaṃ gato hoti. Ayaṃ, bhikkhave,
paṭhamo puññābhisando kusalābhisando sukhassāhāro sovaggiko sukhavipāko
saggasaṃvattaniko, iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya sukhāya saṃvattati.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, ariyasāvako dhammaṃ saraṇaṃ gato hoti. Ayaṃ,
bhikkhave, dutiyo puññābhisando…pe… saṃvattati.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, ariyasāvako saṅghaṃ saraṇaṃ gato hoti. Ayaṃ,
bhikkhave, tatiyo puññābhisando kusalābhisando sukhassāhāro sovaggiko
sukhavipāko saggasaṃvattaniko, iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya sukhāya
saṃvattati.
[kathā. 480] ‘‘Pañcimāni ,
bhikkhave, dānāni mahādānāni aggaññāni rattaññāni vaṃsaññāni porāṇāni
asaṃkiṇṇāni asaṃkiṇṇapubbāni, na saṃkiyanti na saṃkiyissanti,
appaṭikuṭṭhāni [appatikuṭṭhāni
(sī.)] samaṇehi
brāhmaṇehi viññūhi. Katamāni pañca? Idha, bhikkhave, ariyasāvako
pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato hoti. Pāṇātipātā paṭivirato,
bhikkhave, ariyasāvako aparimāṇānaṃ sattānaṃ abhayaṃ deti, averaṃ deti,
abyābajjhaṃ [abyāpajjhaṃ (ka.)
evamuparipi] deti.
Aparimāṇānaṃ sattānaṃ abhayaṃ datvā averaṃ datvā abyābajjhaṃ datvā
aparimāṇassa abhayassa averassa abyābajjhassa bhāgī hoti. Idaṃ,
bhikkhave, paṭhamaṃ dānaṃ mahādānaṃ aggaññaṃ rattaññaṃ vaṃsaññaṃ porāṇaṃ
asaṃkiṇṇaṃ asaṃkiṇṇapubbaṃ, na saṃkiyati na saṃkiyissati, appaṭikuṭṭhaṃ
samaṇehi brāhmaṇehi viññūhi. Ayaṃ, bhikkhave,
catuttho puññābhisando kusalābhisando sukhassāhāro sovaggiko sukhavipāko
saggasaṃvattaniko, iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya sukhāya saṃvattati.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, ariyasāvako adinnādānaṃ pahāya adinnādānā
paṭivirato hoti…pe… kāmesumicchācāraṃ pahāya kāmesumicchācārā
paṭivirato hoti…pe… musāvādaṃ pahāya musāvādā
paṭivirato hoti…pe… surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ pahāya
surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato hoti. Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā
paṭivirato, bhikkhave, ariyasāvako aparimāṇānaṃ
sattānaṃ abhayaṃ deti averaṃ deti abyābajjhaṃ deti. Aparimāṇānaṃ
sattānaṃ abhayaṃ datvā averaṃ datvā abyābajjhaṃ datvā, aparimāṇassa
abhayassa averassa abyābajjhassa bhāgī hoti. Idaṃ, bhikkhave, pañcamaṃ
dānaṃ mahādānaṃ aggaññaṃ rattaññaṃ vaṃsaññaṃ porāṇaṃ asaṃkiṇṇaṃ
asaṃkiṇṇapubbaṃ, na saṃkiyati na saṃkiyissati, appaṭikuṭṭhaṃ samaṇehi
brāhmaṇehi viññūhi. Ayaṃ kho, bhikkhave, aṭṭhamo puññābhisando
kusalābhisando sukhassāhāro sovaggiko sukhavipāko
saggasaṃvattaniko, iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya sukhāya saṃvattati.
Ime kho, bhikkhave, aṭṭha puññābhisandā kusalābhisandā sukhassāhārā
sovaggikā sukhavipākā saggasaṃvattanikā, iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya
sukhāya saṃvattantī’’ti. Navamaṃ.
|
9. Abhisandasuttavaṇṇanā
39.
Navame dānānīti
cetanādānāni. Aggaññānītiādīnaṃ
attho heṭṭhā vuttoyeva.
|
(IX) (39) Nguồn Nước Công Đức
1.- Này các Tỷ-kheo, có tám nguồn nước công đức này, là nguồn nước
thiện, món ăn cho an lạc làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa
đến cơi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc. Thế nào
là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử quy y Phật. Này các Tỷ-kheo, đây
là nguồn nước công đức thứ nhất, là nguồn nước thiện ... hạnh phúc, an
lạc.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử quy y Pháp. Này các Tỷ-kheo,
đây là nguồn nước công đức thứ hai, là nguồn nước thiện ... hạnh phúc,
an lạc.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử quy y Tăng. Này các Tỷ-kheo,
đây là nguồn nước công đức thứ ba, là nguồn nước thiện ... hạnh phúc, an
lạc.
5. Này các Tỷ-kheo, có năm bố thí này, là đại bố thí, được biết là tối
sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không
tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị
những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Thế nào là năm?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát
sanh. Này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, đem cho không sợ
hăi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng
sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng
chúng sanh, không sợ hăi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ
vô lượng không sợ hăi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là
bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu
ngày ... không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Này
các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ tư, là nguồn nước thiện ...
dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận lấy của không cho, từ
bỏ lấy của không cho ... Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ hai, là đại
bố thí, ... Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ năm, là
nguồn nước thiện ... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ
bỏ tà hạnh trong các dục ... Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ ba, là
đại bố thí, ... Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ sáu, là
nguồn nước thiện ... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo
... Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ tư, là đại bố thí, ... Này các
Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ bảy, là nguồn nước thiện ... dẫn
đến khả ái, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận đắm say rượu men, rượu
nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Này các Tỷ-kheo, vị Thánh Đệ Tử
đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu,
đem cho không sợ hăi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho
vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi
cho vô lượng chúng sanh, không sợ hăi, không hận thù, không hại, vị ấy
được san sẻ vô lượng không sợ hăi, không hận thù, không hại. Này các
Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ năm, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được
biết là lâu ngày ... không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh
thường. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ tám, là nguồn
nước thiện ... dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc.
Này các Tỷ-kheo, có tám nguồn nước công đức này, là nguồn nước thiện,
món ăn cho an lạc làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cơi
trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc.
|
10. Duccaritavipākasuttaṃ
40. ‘‘Pāṇātipāto, bhikkhave, āsevito bhāvito bahulīkato
nirayasaṃvattaniko tiracchānayonisaṃvattaniko
pettivisayasaṃvattaniko. Yo sabbalahuso [sabbalahusoti
sabbalahuko (syā. aṭṭha.)] pāṇātipātassa vipāko,
manussabhūtassa appāyukasaṃvattaniko hoti.
‘‘Adinnādānaṃ, bhikkhave, āsevitaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ
nirayasaṃvattanikaṃ tiracchānayonisaṃvattanikaṃ
pettivisayasaṃvattanikaṃ. Yo sabbalahuso adinnādānassa vipāko,
manussabhūtassa bhogabyasanasaṃvattaniko hoti.
‘‘Kāmesumicchācāro, bhikkhave, āsevito bhāvito bahulīkato
nirayasaṃvattaniko tiracchānayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattaniko.
Yo sabbalahuso kāmesumicchācārassa vipāko, manussabhūtassa
sapattaverasaṃvattaniko hoti.
‘‘Musāvādo , bhikkhave, āsevito bhāvito bahulīkato
nirayasaṃvattaniko tiracchānayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattaniko.
Yo sabbalahuso musāvādassa vipāko, manussabhūtassa
abhūtabbhakkhānasaṃvattaniko hoti.
‘‘Pisuṇā , bhikkhave, vācā āsevitā bhāvitā
bahulīkatā nirayasaṃvattanikā tiracchānayonisaṃvattanikā
pettivisayasaṃvattanikā. Yo sabbalahuso pisuṇāya vācāya vipāko,
manussabhūtassa mittehi bhedanasaṃvattaniko hoti.
‘‘Pharusā , bhikkhave, vācā āsevitā bhāvitā
bahulīkatā nirayasaṃvattanikā tiracchānayonisaṃvattanikā
pettivisayasaṃvattanikā. Yo sabbalahuso pharusāya vācāya vipāko,
manussabhūtassa amanāpasaddasaṃvattaniko hoti.
‘‘Samphappalāpo, bhikkhave, āsevito bhāvito bahulīkato
nirayasaṃvattaniko tiracchānayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattaniko.
Yo sabbalahuso samphappalāpassa vipāko, manussabhūtassa
anādeyyavācāsaṃvattaniko hoti.
‘‘Surāmerayapānaṃ, bhikkhave , āsevitaṃ bhāvitaṃ
bahulīkataṃ nirayasaṃvattanikaṃ tiracchānayonisaṃvattanikaṃ
pettivisayasaṃvattanikaṃ. Yo sabbalahuso surāmerayapānassa vipāko,
manussabhūtassa ummattakasaṃvattaniko hotī’’ti. Dasamaṃ.
|
10. Duccaritavipākasuttavaṇṇanā
40.
Dasame pāṇātipātoti
pāṇātipātacetanā. Sabbalahusoti sabbalahuko. Appāyukasaṃvattanikoti
tena parittakena kammavipākena appāyuko hoti, dinnamattāya vā
paṭisandhiyā vilīyati mātukucchito nikkhantamatte vā. Evarūpo hi na
aññassa kassaci nissando, pāṇātipātasseva gatamaggo esoti. Bhogabyasanasaṃvattanikoti
yathā kākaṇikāmattampi hatthe na tiṭṭhati, evaṃ
bhogabyasanaṃ saṃvatteti. Sapattaverasaṃvattaniko hotīti saha sapattehi veraṃ
saṃvatteti. Tassa hi sapattā ca bahukā honti. Yo ca naṃ passati, tasmiṃ
verameva uppādeti na nibbāyati. Evarūpo hi parassa rakkhitagopitabhaṇḍe
aparādhassa nissando.
Abhūtabbhakkhānasaṃvattaniko hotīti
abhūtena abbhakkhānaṃ saṃvatteti, yena kenaci kataṃ tasseva upari
patati. Mittehibhedanasaṃvattanikoti
mittehi bhedaṃ saṃvatteti. Yaṃ yaṃ mittaṃ karoti, so so bhijjatiyeva. Amanāpasaddasaṃvattanikoti
amanāpasaddaṃ saṃvatteti. Yā sā vācā kaṇṭakā kakkasā kaṭukā abhisajjanī
mammacchedikā, gatagataṭṭhāne tameva suṇāti, manāpasaddasavanaṃ nāma na
labhati. Evarūpo pharusavācāya gatamaggo nāma. Anādeyyavācāsaṃvattanikoti
aggahetabbavacanataṃ saṃvatteti, ‘‘tvaṃ kasmā kathesi, ko hi tava
vacanaṃ gahessatī’’ti vattabbataṃ āpajjati. Ayaṃ samphappalāpassa
gatamaggo. Ummattakasaṃvattaniko
hotīti ummattakabhāvaṃ saṃvatteti.
Tena hi manusso ummatto vā khittacitto vā eḷamūgo vā hoti. Ayaṃ
surāpānassa nissando. Imasmiṃ sutte vaṭṭameva kathitanti.
|
(X) (40) Rất Là Nhẹ
1.- Này các Tỷ-kheo, sát sanh được thực hiện, được tu tập, được làm cho
sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ.
Quả dị thục hết sức nhẹ của sát sanh là được làm người với tuổi thọ
ngắn.
2. Này các Tỷ-kheo, lấy của không cho được thực hiện, được tu tập, được
làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi
ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của lấy của không cho là được làm người
với sự tổn hại tài sản.
3. Này các Tỷ-kheo, tà hạnh trong các dục được thực hiện, được tu tập,
được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến
cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của tà hạnh trong các dục là được
làm người với sự oán thù của kẻ địch.
4. Này các Tỷ-kheo, nói láo được thực hiện, được tu tập, được làm cho
sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ.
Quả dị thục hết sức nhẹ của nói láo là được làm người bị vu cáo không
đúng sự thật.
5. Này các Tỷ-kheo, nói hai lưỡi được thực hiện, được tu tập, được làm
cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ
quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói hai lưỡi là được làm người với bạn
bè bị đổ vỡ.
6. Này các Tỷ-kheo, nói ác khẩu được thực hiện, được tu tập, được làm
cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ
quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói ác khẩu là được làm người và được
nghe những tiếng không khả ư.
7. Này các Tỷ-kheo, nói lời phù phiếm được thực hiện, được tu tập, được
làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi
ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói lời phù phiếm là được làm người
và được nghe những lời khó chấp nhận.
8. Này các Tỷ-kheo, uống men rượu, rượu nấu, được thực hiện, được tu
tập, được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh,
đưa đến cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của uống rượu mem, rượu nấu
là được làm người với tâm điên loạn.
|