CHÁNH
KINH PALI
|
CHÚ GIẢI
PALI
|
BẢN DỊCH
VIỆT
|
Aṅguttaranikāyo
|
Aṅguttaranikāye
|
Tăng Chi Bộ
|
Aṭṭhakanipātapāḷi
|
Aṭṭhakanipāta-aṭṭhakathā
|
Chương
VIII
–
Tám
Pháp
|
5. Uposathavaggo
|
5. Uposathavaggo
|
V. Phẩm Ngày Trai Giới
|
1. Saṅkhittūposathasuttaṃ
41.
Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ
bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho
bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū
bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –
‘‘Aṭṭhaṅgasamannāgato, bhikkhave, uposatho upavuttho mahapphalo hoti
mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro. Kathaṃ upavuttho ca, bhikkhave,
aṭṭhaṅgasamannāgato uposatho mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko
mahāvipphāro? Idha , bhikkhave, ariyasāvako iti
paṭisañcikkhati – ‘yāvajīvaṃ arahanto pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā
paṭiviratā nihitadaṇḍā nihitasatthā lajjī dayāpannā,
sabbapāṇabhūtahitānukampino viharanti. Ahaṃ pajja imañca rattiṃ imañca
divasaṃ pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato nihitadaṇḍo
nihitasattho lajjī dayāpanno, sabbapāṇabhūtahitānukampī viharāmi.
Imināpaṅgena [imināpi
aṅgena (sī. pī.) a. ni. 3.71] arahataṃ
anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissatī’ti. Iminā paṭhamena
aṅgena samannāgato hoti.
‘‘‘Yāvajīvaṃ arahanto adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭiviratā dinnādāyī
dinnapāṭikaṅkhī, athenena sucibhūtena attanā viharanti. Ahaṃ pajja
imañca rattiṃ imañca divasaṃ adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭivirato
dinnādāyī dinnapāṭikaṅkhī, athenena sucibhūtena attanā viharāmi.
Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissatī’ti.
Iminā dutiyena aṅgena samannāgato hoti.
‘‘‘Yāvajīvaṃ arahanto abrahmacariyaṃ pahāya brahmacārino ārācārino
viratā methunā gāmadhammā. Ahaṃ pajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ
abrahmacariyaṃ pahāya brahmacārī ārācārī [anācārī
(ka.)] virato methunā
gāmadhammā. Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho
bhavissatī’ti. Iminā tatiyena aṅgena samannāgato hoti.
‘‘‘Yāvajīvaṃ arahanto musāvādaṃ pahāya musāvādā
paṭiviratā saccavādino saccasandhā thetā paccayikā avisaṃvādako lokassa.
Ahaṃ pajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ musāvādaṃ pahāya musāvādā
paṭivirato saccavādī saccasandho theto paccayiko
avisaṃvādako lokassa. Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me
upavuttho bhavissatī’ti. Iminā catutthena aṅgena samannāgato hoti.
‘‘‘Yāvajīvaṃ arahanto surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ pahāya
surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā. Ahaṃ pajja
imañca rattiṃ imañca divasaṃ surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ pahāya
surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato. Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi,
uposatho ca me upavuttho bhavissatī’ti. Iminā pañcamena aṅgena
samannāgato hoti.
‘‘‘Yāvajīvaṃ arahanto ekabhattikā rattūparatā viratā vikālabhojanā. Ahaṃ
pajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ ekabhattiko rattūparato virato
vikālabhojanā. Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho
bhavissatī’ti. Iminā chaṭṭhena aṅgena samannāgato hoti.
‘‘‘Yāvajīvaṃ arahanto
naccagītavāditavisūkadassanamālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānaṃ
pahāya
naccagītavāditavisūkadassanamālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā
paṭiviratā. Ahaṃ pajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ
naccagītavāditavisūkadassanamālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānaṃ
pahāya
naccagītavāditavisūkadassanamālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā
paṭivirato. Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho
bhavissatī’ti. Iminā sattamena aṅgena samannāgato hoti.
‘‘‘Yāvajīvaṃ arahanto uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya uccāsayanamahāsayanā
paṭiviratā nīcaseyyaṃ kappenti – mañcake vā tiṇasanthārake vā. Ahaṃ
pajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ
pahāya uccāsayanamahāsayanā paṭivirato nīcaseyyaṃ kappemi – mañcake vā
tiṇasanthārake vā. Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi ,
uposatho ca me upavuttho bhavissatī’ti. Iminā aṭṭhamena aṅgena
samannāgato hoti . Evaṃ upavuttho kho, bhikkhave,
aṭṭhaṅgasamannāgato uposatho mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko
mahāvipphāro’’ti. Paṭhamaṃ.
|
|
(I) (41) Các Trai Giới
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatth́ tại Jetanava, khu vườn ông
Anàthapindika, ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo", - "Bạch
Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực
hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến măn
lớn. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là ngày trai giới thành tựu tám chi
phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ
lớn; có biến măn lớn?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Cho đến trọn
đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ
kiếm, biết tàm quư, có ḷng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả
chúng sanh và loài hữu t́nh. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn
tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quư, có ḷng
từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu t́nh.
Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành trai giới
". Đây là chi phần thứ nhất được thành tựu.
4. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận lấy của không cho, chỉ
lấy những vật đă cho, chỉ mong những vật đă cho, tự sống thanh tịnh,
không có trộm cướp. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận lấy
của không cho, chỉ lấy những vật đă cho, chỉ mong những vật đă cho, tự
sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Với chi phần này, Ta theo gương vị
A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới ". Đây là chi phần thứ hai được
thành tựu.
5. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận phi Phạm hạnh, hành Phạm
hạnh, sống xa lánh, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Hôm nay, đêm này và ngày nay,
ta cũng đoạn tận phi Phạm hạnh, hành Phạm hạnh, sống xa lánh, từ bỏ dâm
dục hèn hạ. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành
ngày trai giới ". Đây là chi phần thứ ba được thành tựu.
6. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo,
nói những lời chân thật, y chỉ sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không
lường gạt đời. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận nói láo,
từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ sự thật, chắc chắn, đáng
tin cậy, không lường gạt đời. Với chi phần này, Ta theo gương vị
A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới ". Đây là chi phần thứ tư được
thành tựu.
7. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận đắm say men rượu men,
rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Hôm nay, đêm này và ngày
nay, ta cũng đoạn tận đắm say men rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu
men, rượu nấu. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực
hành ngày trai giới ". Đây là chi phần thứ năm được thành tựu.
8. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn
ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời. Hôm nay, đêm này và
ngày nay, ta cũng dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không
ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời. Với chi phần này, Ta theo gương vị
A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới ". Đây là chi phần thứ sáu được
thành tựu.
9. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc,
diễn kịch, không trang sức bằng ṿng hoa, hương liệu, dầu thoa và các
thời trang. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng từ bỏ không đi xem
múa, hát, nhạc diễn kịch, không trang sức bằng ṿng hoa, hương liệu, dầu
thoa và các thời trang. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta
sẽ thực hành ngày trai giới ". Đây là chi phần thứ bảy được thành tựu.
10. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận, không dùng các giường
cao, giường lớn, từ bỏ không dùng các giường cao, giường lớn. Hôm nay,
đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận, không dùng các giường cao, giường
lớn, từ bỏ không dùng các giường cao, giường lớn. Với chi phần này, Ta
theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới ". Đây là chi
phần thứ tám được thành tựu.
Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu tám chi phần được thực hành
như vậy, thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến
măn lớn.
|
2. Vitthatūposathasuttaṃ
42.
‘‘Aṭṭhaṅgasamannāgato , bhikkhave, uposatho
upavuttho mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro. Kathaṃ
upavuttho ca, bhikkhave, aṭṭhaṅgasamannāgato uposatho mahapphalo hoti
mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro? Idha, bhikkhave, ariyasāvako iti
paṭisañcikkhati – ‘yāvajīvaṃ arahanto pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā
paṭiviratā nihitadaṇḍā nihitasatthā lajjī dayāpannā,
sabbapāṇabhūtahitānukampino viharanti. Ahaṃ pajja imañca rattiṃ imañca
divasaṃ pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato nihitadaṇḍo
nihitasattho lajjī dayāpanno, sabbapāṇabhūtahitānukampī viharāmi.
Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissatī’ti.
Iminā paṭhamena aṅgena samannāgato hoti…pe….
‘‘‘Yāvajīvaṃ arahanto uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya uccāsayanamahāsayanā
paṭiviratā nīcaseyyaṃ kappenti – mañcake vā tiṇasanthārake vā. Ahaṃ
pajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya
uccāsayanamahāsayanā paṭivirato nīcaseyyaṃ kappemi – mañcake vā
tiṇasanthārake vā. Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me
upavuttho bhavissatī’ti. Iminā aṭṭhamena aṅgena samannāgato hoti. Evaṃ
upavuttho kho, bhikkhave, aṭṭhaṅgasamannāgato uposatho mahapphalo hoti
mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro .
‘‘Kīvamahapphalo hoti kīvamahānisaṃso kīvamahājutiko kīvamahāvipphāro?
Seyyathāpi, bhikkhave, yo imesaṃ soḷasannaṃ mahājanapadānaṃ
pahūtarattaratanānaṃ [pahūtasattaratanānaṃ
(sī. syā. kaṃ. pī.) a. ni. 3.71 pāḷiyā ṭīkāyaṃ dassitapāḷiyeva.
tadaṭṭhakathāpi passitabbā] issariyādhipaccaṃ
rajjaṃ kāreyya, seyyathidaṃ – aṅgānaṃ magadhānaṃ kāsīnaṃ kosalānaṃ
vajjīnaṃ mallānaṃ cetīnaṃ vaṅgānaṃ kurūnaṃ pañcālānaṃ macchānaṃ [majjānaṃ
(ka.)] sūrasenānaṃ
assakānaṃ avantīnaṃ gandhārānaṃ kambojānaṃ, aṭṭhaṅgasamannāgatassa uposathassa
etaṃ [ekaṃ
(ka.)] kalaṃ
nāgghati soḷasiṃ. Taṃ kissa hetu? Kapaṇaṃ, bhikkhave, mānusakaṃ rajjaṃ
dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya.
‘‘Yāni, bhikkhave, mānusakāni paññāsa vassāni, cātumahārājikānaṃ devānaṃ
eso eko rattindivo [rattidivo
(ka.)].
Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo.
Tena saṃvaccharena dibbāni pañca vassasatāni cātumahārājikānaṃ devānaṃ
āyuppamāṇaṃ. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ idhekacco itthī
vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya. Idaṃ kho
panetaṃ, bhikkhave, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ
sukhaṃ upanidhāya’’’.
‘‘Yāni, bhikkhave, mānusakāni vassasatāni, tāvatiṃsānaṃ devānaṃ eso eko
rattindivo. Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena dvādasamāsiyo
saṃvaccharo. Tena saṃvaccharena dibbaṃ vassasahassaṃ tāvatiṃsānaṃ
devānaṃ āyuppamāṇaṃ. Ṭhānaṃ kho panetaṃ,
bhikkhave, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ
uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tāvatiṃsānaṃ devānaṃ
sahabyataṃ upapajjeyya. Idaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, sandhāya bhāsitaṃ –
‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ
upanidhāya’’’.
‘‘Yāni, bhikkhave, mānusakāni dve vassasatāni, yāmānaṃ devānaṃ eso eko
rattindivo. Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena dvādasamāsiyo
saṃvaccharo. Tena saṃvaccharena dibbāni dve vassasahassāni yāmānaṃ
devānaṃ āyuppamāṇaṃ. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ
idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā yāmānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya. Idaṃ
kho panetaṃ, bhikkhave, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ
dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’’’.
‘‘Yāni, bhikkhave, mānusakāni cattāri vassasatāni, tusitānaṃ devānaṃ eso
eko rattindivo. Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena
dvādasamāsiyo saṃvaccharo. Tena saṃvaccharena dibbāni cattāri
vassasahassāni tusitānaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā
aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā tusitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya. Idaṃ kho panetaṃ,
bhikkhave, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ
upanidhāya’’’.
‘‘Yāni, bhikkhave, mānusakāni aṭṭha vassasatāni, nimmānaratīnaṃ devānaṃ
eso eko rattindivo. Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena
dvādasamāsiyo saṃvaccharo. Tena saṃvaccharena dibbāni aṭṭha
vassasahassāni nimmānaratīnaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ. Ṭhānaṃ kho panetaṃ,
bhikkhave, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā
aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā nimmānaratīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya. Idaṃ
kho panetaṃ, bhikkhave, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ
dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’’’.
‘‘Yāni, bhikkhave, mānusakāni soḷasa vassasatāni,
paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ eso eko rattindivo. Tāya rattiyā
tiṃsarattiyo māso. Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo. Tena
saṃvaccharena dibbāni soḷasa vassasahassāni paranimmitavasavattīnaṃ
devānaṃ āyuppamāṇaṃ. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ
idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ
upapajjeyya. Idaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ
mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāyā’’’ti.
‘‘Pāṇaṃ na haññe [hāne
(sī.), hena (ka.) a. ni. 3.71] na
cadinnamādiye,
Musā na bhāse na ca majjapo siyā;
Abrahmacariyā virameyya methunā,
Rattiṃ na bhuñjeyya vikālabhojanaṃ.
‘‘Mālaṃ na dhāre na ca gandhamācare [gandhamādhare
(ka.)],
Mañce chamāyaṃ va sayetha santhate;
Etañhi aṭṭhaṅgikamāhuposathaṃ,
Buddhena dukkhantagunā pakāsitaṃ.
‘‘Cando ca suriyo ca ubho
sudassanā,
Obhāsayaṃ anupariyanti yāvatā;
Tamonudā te pana antalikkhagā,
Nabhe pabhāsanti disāvirocanā.
‘‘Etasmiṃ yaṃ vijjati antare dhanaṃ,
Muttā maṇi veḷuriyañca bhaddakaṃ;
Siṅgīsuvaṇṇaṃ atha vāpi kañcanaṃ,
Yaṃ jātarūpaṃ haṭakanti vuccati.
‘‘Aṭṭhaṅgupetassa uposathassa,
Kalampi te nānubhavanti soḷasiṃ;
Candappabhā tāragaṇā ca sabbe.
‘‘Tasmā hi nārī ca naro ca sīlavā,
Aṭṭhaṅgupetaṃ upavassuposathaṃ;
Puññāni katvāna sukhudrayāni,
Aninditā saggamupenti ṭhāna’’nti. dutiyaṃ;
|
|
(II) (42) Ngày Trai Giới
1. - Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực
hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến măn
lớn. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là ngày trai giới thành tựu tám chi
phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ
lớn; có biến măn lớn?
2-3. ... (giống như kinh 41 trên, từ đoạn số 22 đến 10) ... (Đây
là chi phần thứ tám được thành tựu )
- Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành
thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến măn lớn.
Đến như thế nào là quả lớn? Đến như thế nào là lợi ích lớn? Đến như thế
nào là rực rỡ lớn? Đến như thế nào là biến măn lớn?
4. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người áp đặt chủ quyền cai trị trên mười
sáu quốc độ lớn này tràn đầy bảy báu, như Anga, Magadha, Kàśkosala,
Vajj́, Cet́, Vamsà, Kurù, Pancàlà, Macchà, Sùrasenà, Asska, Avant́,
Gandhàrà, Kambojà. Nhưng chủ quyền ấy không bằng một phần mười sáu của
một ngày trai giới thành tựu tám chi phần. V́ cớ sao? Nhỏ nhoi, này các
Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên.
5. Năm mươi năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một
ngày của chư Thiên Bốn thiên vương. Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một
tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Năm mươi năm chư
Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên Bốn thiên vương. Sự
kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: "Ở đây, có người đàn bà hay đàn
ông, sau khi thực hành trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên Bốn thiên vương". Do
vậy, Ta nói: "Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của loài người,
so sánh với hạnh phúc chư Thiên ".
6. Một trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một
ngày của chư Thiên cơi trời Ba mươi ba. Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành
một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Một ngàn năm
chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cơi trời Ba mươi
ba. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: "Ở đây, có người đàn bà hay
đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần, sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cơi trời Ba
mươi ba". Do vậy, Ta nói: "Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của
loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên ".
7. Hai trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một
ngày của chư Thiên cơi trời Yàma. Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một
tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Hai ngàn năm chư
Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cơi trời Yàma. Sự kiện
này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: "Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau
khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cơi trời Yàma". Do vậy, Ta
nói: "Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh
với hạnh phúc chư Thiên".
Bốn trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày
của chư Thiên cơi trời Tusità (Đâu-Xuất). Ba mươi đêm của đêm ấy làm
thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Bốn ngàn
năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cơi trời
Tusità. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: "Ở đây, có người đàn bà
hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần,
sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cơi trời
Tusità". Do vậy, Ta nói: "Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của
loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên ".
Tám trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày
của chư Thiên cơi trời Hóa lạc. Tám ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm
thành thọ mạng của chư Thiên cơi trời Hóa lạc. Sự kiện này có xảy ra,
... với hạnh phúc chư Thiên ".
Mười sáu trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một
ngày của chư Thiên cơi trời Tha hóa Tự tại. Ba mươi đêm của đêm ấy làm
thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Mười sáu
ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cơi trời
Tha hóa Tự tại. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: "Ở đây, có người
đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi
phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cơi
trời Tha hóa Tự tại. Do vậy, Ta nói: "Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là
quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên ".
Chớ giết hại loại sanh
Chớ lấy của không cho
Chớ nói lời nói láo
Chớ uống thứ rượu say
Từ bỏ phi Phạm hạnh
Từ bỏ không dâm dục
Không ăn vào ban đêm
Tránh không ăn phi thời
Không mang các ṿng hoa
Không dùng các hương liệu
Hăy nằm trên tấm thảm
Trải dài đất làm giường
Chính hạnh trai giới này
Được gọi có tám phần
Do đức Phật nói lên
Đưa đến đoạn tận khổ
Mặt trăng và mặt trời
Cả hai thấy lành tốt
Chỗ nào chúng đi tới,
Chúng chói sáng hào quang
Chúng làm mây sáng chói
Giữa hư không chúng đi
Trên trời chúng chói sáng
Sáng rực mọi phương hướng
Trong khoảng không gian ấy
Tài sản được t́m thấy
Trân châu và ngọc báu
Lưu ly đá cầu may
Vàng cục trong ḷng đất
Hay loại Kancana
Cùng loại vàng sáng chói
Được gọi Hataka
Tuy vậy chúng giá trị
Chỉ một phần mười sáu
Với hạnh giữ trai giới
Đầy đủ cả tám mặt
Kể cả ánh sáng trăng
Với cả ṿm trời sao
Vậy người nữ, người nam
Giữ ǵn theo tịnh giới
Hành Bồ-tát trai giới
Đầy đủ cả tám mặt
Làm các thiện công đức
Đem lại nhiều an lạc
Được sanh lên cơi trời
Không bị người cười chê.
|
3. Visākhāsuttaṃ
43.[a.
ni. 3.71] Ekaṃ
samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde. Atha
kho visākhā migāramātā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho
visākhaṃ migāramātaraṃ bhagavā etadavoca – ‘‘aṭṭhaṅgasamannāgato kho,
visākhe, uposatho upavuttho mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko
mahāvipphāro. Kathaṃ upavuttho ca, visākhe, aṭṭhaṅgasamannāgato
uposatho mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko
mahāvipphāro? Idha, visākhe, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati –
‘yāvajīvaṃ arahanto pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭiviratā
nihitadaṇḍā nihitasatthā lajjī dayāpannā,
sabbapāṇabhūtahitānukampino viharanti. Ahaṃ pajja imañca rattiṃ imañca
divasaṃ pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato nihitadaṇḍo
nihitasattho lajjī dayāpanno, sabbapāṇabhūtahitānukampī viharāmi.
Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi , uposatho ca
me upavuttho bhavissatī’’’ti. Iminā paṭhamena aṅgena samannāgato
hoti…pe….
‘‘‘Yāvajīvaṃ arahanto uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya uccāsayanamahāsayanā
paṭiviratā nīcaseyyaṃ kappenti – mañcake vā tiṇasanthārake vā. Ahaṃ
pajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya
uccāsayanamahāsayanā paṭivirato nīcaseyyaṃ kappemi – mañcake vā
tiṇasanthārake vā. Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me
upavuttho bhavissatī’ti. Iminā aṭṭhamena aṅgena samannāgato hoti. Evaṃ
upavuttho kho, visākhe, aṭṭhaṅgasamannāgato uposatho mahapphalo hoti
mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro.
‘‘Kīvamahapphalo hoti, kīvamahānisaṃso, kīvamahājutiko,
kīvamahāvipphāro? Seyyathāpi, visākhe, yo imesaṃ soḷasannaṃ
mahājanapadānaṃ pahūtarattaratanānaṃ issariyādhipaccaṃ rajjaṃ kāreyya,
seyyathidaṃ – aṅgānaṃ magadhānaṃ kāsīnaṃ kosalānaṃ vajjīnaṃ mallānaṃ
cetīnaṃ vaṅgānaṃ kurūnaṃ pañcālānaṃ macchānaṃ sūrasenānaṃ assakānaṃ
avantīnaṃ gandhārānaṃ kambojānaṃ, aṭṭhaṅgasamannāgatassa uposathassa
etaṃ kalaṃ nāgghati soḷasiṃ. Taṃ kissa hetu? Kapaṇaṃ, visākhe, mānusakaṃ
rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya.
‘‘Yāni, visākhe, mānusakāni paññāsa vassāni, cātumahārājikānaṃ devānaṃ
eso eko rattindivo. Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena
dvādasamāsiyo saṃvaccharo. Tena saṃvaccharena dibbāni pañca vassasatāni
cātumahārājikānaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe,
vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ
upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ
sahabyataṃ upapajjeyya . Idaṃ kho panetaṃ,
visākhe, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ
upanidhāya’’’.
‘‘Yaṃ , visākhe, mānusakaṃ vassasataṃ,
tāvatiṃsānaṃ devānaṃ eso eko rattindivo. Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso.
Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo. Tena saṃvaccharena vassasahassaṃ
tāvatiṃsānaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ
idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tāvatiṃsānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya.
Idaṃ kho panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ
dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’’’.
‘‘Yāni, visākhe, mānusakāni dve vassasatāni…pe… cattāri vassasatāni…pe…
aṭṭha vassasatāni…pe… soḷasa vassasatāni paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ
eso eko rattindivo . Tāya rattiyā tiṃsarattiyo
māso. Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo. Tena saṃvaccharena dibbāni
soḷasa vassasahassāni paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā
aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya. Idaṃ kho
panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ
sukhaṃ upanidhāyā’’’ti.
‘‘Pāṇaṃ na haññe na cadinnamādiye,
Musā na bhāse na ca majjapo siyā;
Abrahmacariyā virameyya methunā,
Rattiṃ na bhuñjeyya vikālabhojanaṃ.
‘‘Mālaṃ na dhāre na ca gandhamācare,
Mañce chamāyaṃ va sayetha santhate;
Etañhi aṭṭhaṅgikamāhuposathaṃ,
Buddhena dukkhantagunā pakāsitaṃ.
‘‘Cando ca suriyo ca ubho sudassanā,
Obhāsayaṃ anupariyanti yāvatā;
Tamonudā te pana antalikkhagā,
Nabhe pabhāsanti disāvirocanā.
‘‘Etasmiṃ yaṃ vijjati antare dhanaṃ,
Muttā maṇi veḷuriyañca bhaddakaṃ;
Siṅgīsuvaṇṇaṃ atha vāpi kañcanaṃ,
Yaṃ jātarūpaṃ haṭakanti vuccati.
‘‘Aṭṭhaṅgupetassa uposathassa,
Kalampi te nānubhavanti soḷasiṃ;
Candappabhā tāragaṇā ca sabbe.
‘‘Tasmā hi nārī ca naro ca sīlavā,
Aṭṭhaṅgupetaṃ upavassuposathaṃ;
Puññāni katvāna sukhudrayāni,
Aninditā saggamupenti ṭhāna’’nti. tatiyaṃ;
|
|
(III) (43) Visàkhà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatth́, tại Đông Viên, lâu đài mẹ của
Migàrà. Rồi Visàkhà, mẹ của Migàrà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàrà
đang ngồi một bên:
2. - Này Visàkhà, ngày trai giới đầy đủ tám chi phần được thực hành,
thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến măn lớn ...
(giống như kinh 42 với cả bài kệ, với những thay đổi cần thiết).
|
4. Vāseṭṭhasuttaṃ
44.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ. Atha
kho vāseṭṭho upāsako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho
vāseṭṭhaṃ upāsakaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘aṭṭhaṅgasamannāgato, vāseṭṭha,
uposatho upavuttho mahapphalo hoti…pe… aninditā saggamupenti ṭhāna’’nti.
Evaṃ vutte vāseṭṭho upāsako bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘piyā me,
bhante, ñātisālohitā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavaseyyuṃ,
piyānampi me assa ñātisālohitānaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya. Sabbe
cepi, bhante, khattiyā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavaseyyuṃ,
sabbesampissa khattiyānaṃ dīgharattaṃ hitāya
sukhāya. Sabbe cepi, bhante, brāhmaṇā…pe… vessā …
suddā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavaseyyuṃ, sabbesampissa suddānaṃ
dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti.
‘‘Evametaṃ, vāseṭṭha, evametaṃ, vāseṭṭha! Sabbe cepi, vāseṭṭha, khattiyā
aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavaseyyuṃ, sabbesampissa khattiyānaṃ
dīgharattaṃ hitāya sukhāya. Sabbe cepi, vāseṭṭha, brāhmaṇā…pe… vessā…
suddā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavaseyyuṃ, sabbesampissa suddānaṃ
dīgharattaṃ hitāya sukhāya. Sadevako cepi, vāseṭṭha, loko samārako
sabrahmako sassamaṇabrāhmaṇī pajā sadevamanussā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ
uposathaṃ upavaseyyuṃ [upavaseyya
(?)],
sadevakassapissa [sadevakassa
(sabbattha) a. ni. 4.193; ma. ni. 3.64 passitabbaṃ] lokassa
samārakassa sabrahmakassa sassamaṇabrāhmaṇiyā
pajāya sadevamanussāya dīgharattaṃ hitāya sukhāya. Ime cepi, vāseṭṭha,
mahāsālā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavaseyyuṃ, imesampissa
mahāsālānaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya ( ) [(sace
ceteyyuṃ) katthaci atthi. a. ni. 4.193 passitabbaṃ].
Ko pana vādo manussabhūtassā’’ti! Catutthaṃ.
|
4. Vāseṭṭhasuttavaṇṇanā
44.
Pañcamassa catutthe ime
cepi, vāseṭṭha, mahāsālāti purato ṭhite dve sālarukkhe
dassento parikappopamaṃ āha. Idaṃ vuttaṃ hoti – ime tāva mahāsālā
acetanā. Sace etepi sacetanā hutvā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ
upavaseyyuṃ, etesampi so uposathavāso dīgharattaṃ hitāya sukhāya assa.
Bhūte pana vattabbameva natthīti.
|
(IV) (44) Vàsettha
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Mahàvana, ngôi nhà có nóc nhọn,
rồi nam cư sĩ Vàsettha đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với nam cư sĩ đang ngồi một bên: ... (Đức
Phật nói lại như kinh 4,2 kể cả bài kệ, với những thay đổi cần thiết) ...
2. Khi được nói như vậy, nam cư sĩ Vàsettha bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, nếu người bà con huyết thống thân mến của con thực hành
ngày trai giới, với đầy đủ tám chi phần này, như vậy, các bà con huyết
thống thân mến của con được hạnh phúc an lạc lâu dài. Bạch Thế Tôn, nếu
tất cả các Sát-đế-lỵ thực hành ngày trai giới, với đầy đủ tám chi phần,
tất cả các được hạnh phúc an lạc lâu dài. Bạch Thế Tôn, nếu tất cả
Bà-la-môn ... các Phệ-Xá ... các Thủ-đà thực hành ngày trai giới với đầy
đủ tám chi phần, tất cả các Thủ-đà được hạnh phúc an lạc lâu dài.
3. - Như vậy là phải, này Vàsettha! Này Vàsettha, nếu tất cả các
Sát-đế-lỵ thực hành ngày trai giới, với đầy đủ tám chi phần, tất cả các
Sát Đế Lỵ được hạnh phúc an lạc lâu dài. Này Vàsettha, nếu tất cả
Bà-la-môn ... các Phệ-Xá ... các Thủ-đà thực hành ngày trai giới với đầy
đủ tám chi phần, tất cả các Thủ-đà sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài. Này
Vàsettha, nếu thế giới chư Thiên, với các ác ma, các Phạm thiên, hay
quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn thực hành ngày trai giới, với đầy đủ tám
chi phần, như vậy, thế giới chư Thiên, các ác ma, các Phạm thiên, hay
quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài. Này
Vàsettha, nếu các cây sàlà lớn này có thể thực hành ngày trai giới với
đầy đủ tám chi phần, sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài, nếu chúng có tư
duy, nói ǵ đến loài người.
|
5. Bojjhasuttaṃ
45.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa
ārāme. Atha kho bojjhā upāsikā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho bojjhaṃ
upāsikaṃ bhagavā etadavoca –
‘‘Aṭṭhaṅgasamannāgato, bojjhe, uposatho upavuttho mahapphalo hoti
mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro. Kathaṃ upavuttho
ca, bojjhe, aṭṭhaṅgasamannāgato uposatho mahapphalo hoti mahānisaṃso
mahājutiko mahāvipphāro? Idha , bojjhe,
ariyasāvako iti paṭisañcikkhati – ‘yāvajīvaṃ arahanto pāṇātipātaṃ pahāya
pāṇātipātā paṭiviratā nihitadaṇḍā nihitasatthā lajjī dayāpannā,
sabbapāṇabhūtahitānukampino viharanti. Ahaṃ pajja imañca rattiṃ imañca
divasaṃ pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato nihitadaṇḍo
nihitasattho lajjī dayāpanno, sabbapāṇabhūtahitānukampī viharāmi.
Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissatī’ti.
Iminā paṭhamena aṅgena samannāgato hoti…pe….
‘‘‘Yāvajīvaṃ arahanto uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya
uccāsayanamahāsayanā paṭiviratā nīcaseyyaṃ kappenti – mañcake vā
tiṇasanthārake vā. Ahaṃ pajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ
uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya uccāsayanamahāsayanā paṭivirato nīcaseyyaṃ
kappemi – mañcake vā tiṇasanthārake vā. Imināpaṅgena arahataṃ anukaromi,
uposatho ca me upavuttho bhavissatī’ti. Iminā aṭṭhamena aṅgena
samannāgato hoti. Evaṃ upavuttho kho, bojjhe, aṭṭhaṅgasamannāgato
uposatho mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro.
‘‘Kīvamahapphalo hoti, kīvamahānisaṃso,
kīvamahājutiko, kīvamahāvipphāro? Seyyathāpi, bojjhe, yo imesaṃ
soḷasannaṃ mahājanapadānaṃ pahūtarattaratanānaṃ issariyādhipaccaṃ rajjaṃ
kāreyya, seyyathidaṃ – aṅgānaṃ magadhānaṃ kāsīnaṃ kosalānaṃ vajjīnaṃ
mallānaṃ cetīnaṃ vaṅgānaṃ kurūnaṃ pañcālānaṃ macchānaṃ sūrasenānaṃ
assakānaṃ avantīnaṃ gandhārānaṃ kambojānaṃ,
aṭṭhaṅgasamannāgatassa uposathassa etaṃ kalaṃ
nāgghati soḷasiṃ. Taṃ kissa hetu? Kapaṇaṃ, bojjhe, mānusakaṃ rajjaṃ
dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya.
‘‘Yāni, bojjhe, mānusakāni paññāsa vassāni, cātumahārājikānaṃ devānaṃ
eso eko rattindivo. Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena
dvādasamāsiyo saṃvaccharo. Tena saṃvaccharena dibbāni pañca vassasatāni
cātumahārājikānaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bojjhe,
vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ
upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ
sahabyataṃ upapajjeyya. Idaṃ kho panetaṃ, bojjhe, sandhāya bhāsitaṃ –
‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’’’.
‘‘Yaṃ, bojjhe, mānusakaṃ vassasataṃ…pe… tāni, bojjhe, mānusakāni dve
vassasatāni…pe… cattāri vassasatāni…pe… aṭṭha vassasatāni…pe… soḷasa
vassasatāni paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ eso eko rattindivo. Tāya
rattiyā tiṃsarattiyo māso. Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo. Tena
saṃvaccharena dibbāni soḷasa vassasahassāni paranimmitavasavattīnaṃ
devānaṃ āyuppamāṇaṃ. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bojjhe, vijjati yaṃ idhekacco
itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ
sahabyataṃ upapajjeyya. Idaṃ kho panetaṃ, bojjhe, sandhāya bhāsitaṃ –
‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāyā’’’ti.
‘‘Pāṇaṃ na haññe na cadinnamādiye,
Musā na bhāse na ca majjapo siyā;
Abrahmacariyā virameyya methunā,
Rattiṃ na bhuñjeyya vikālabhojanaṃ.
‘‘Mālaṃ na dhāre na ca gandhamācare,
Mañce chamāyaṃ va sayetha santhate;
Etañhi aṭṭhaṅgikamāhuposathaṃ,
Buddhena dukkhantagunā pakāsitaṃ.
‘‘Cando ca suriyo ca ubho sudassanā,
Obhāsayaṃ anupariyanti yāvatā;
Tamonudā te pana antalikkhagā,
Nabhe pabhāsanti disāvirocanā.
‘‘Etasmiṃ yaṃ vijjati antare dhanaṃ,
Muttā maṇi veḷuriyañca bhaddakaṃ;
Siṅgīsuvaṇṇaṃ atha vāpi kañcanaṃ,
Yaṃ jātarūpaṃ haṭakanti vuccati.
‘‘Aṭṭhaṅgupetassa uposathassa,
Kalampi te nānubhavanti soḷasiṃ;
Candappabhā tāragaṇā ca sabbe.
‘‘Tasmā hi nārī ca naro ca sīlavā,
Aṭṭhaṅgupetaṃ upavassuposathaṃ;
Puññāni katvāna sukhudrayāni,
Aninditā saggamupenti ṭhāna’’nti. pañcamaṃ;
|
|
(V) (45) Bojjhà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatth́, tại Jetanava, khu vườn ông
Anàthapindika. Rồi nữ cư sĩ Bojjhà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với cư sĩ Bojjhà đang ngồi
xuống một bên:
2. ... (Thế Tôn nói lại kinh 42, kể cả bài kệ, với những thay đổi cần
thiết) ...
|
6. Anuruddhasuttaṃ
46.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā kosambiyaṃ viharati ghositārāme. Tena kho pana
samayena āyasmā anuruddho divāvihāraṃ gato hoti paṭisallīno. Atha kho
sambahulā manāpakāyikā devatā yenāyasmā anuruddho tenupasaṅkamiṃsu;
upasaṅkamitvā āyasmantaṃ anuruddhaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu.
Ekamantaṃ ṭhitā kho tā devatā āyasmantaṃ anuruddhaṃ etadavocuṃ –
‘‘mayaṃ, bhante anuruddha, manāpakāyikā nāma
devatā tīsu ṭhānesu issariyaṃ kārema vasaṃ vattema. Mayaṃ, bhante
anuruddha, yādisakaṃ vaṇṇaṃ ākaṅkhāma tādisakaṃ vaṇṇaṃ ṭhānaso
paṭilabhāma; yādisakaṃ saraṃ ākaṅkhāma tādisakaṃ
saraṃ ṭhānaso paṭilabhāma; yādisakaṃ sukhaṃ ākaṅkhāma tādisakaṃ sukhaṃ
ṭhānaso paṭilabhāma. Mayaṃ, bhante anuruddha, manāpakāyikā nāma devatā
imesu tīsu ṭhānesu issariyaṃ kārema vasaṃ vattemā’’ti.
Atha kho āyasmato anuruddhassa etadahosi – ‘‘aho vatimā devatā sabbāva
nīlā assu nīlavaṇṇā nīlavatthā nīlālaṅkārā’’ti. Atha kho tā devatā
āyasmato anuruddhassa cittamaññāya sabbāva nīlā ahesuṃ nīlavaṇṇā
nīlavatthā nīlālaṅkārā.
Atha kho āyasmato anuruddhassa etadahosi – ‘‘aho vatimā devatā sabbāva
pītā assu…pe… sabbāva lohitakā assu… sabbāva odātā assu
odātavaṇṇā odātavatthā odātālaṅkārā’’ti. Atha kho tā devatā āyasmato
anuruddhassa cittamaññāya sabbāva odātā ahesuṃ odātavaṇṇā odātavatthā
odātālaṅkārā.
Atha kho tā devatā ekā ca [ko
(sī.), ekāva (syā. pī.)] gāyi
ekā ca [ekā
pana (sī.), ekāva (syā. pī.)] nacci
ekā ca [ekā
(sī.), ekāva (syā. pī.)] accharaṃ
vādesi. Seyyathāpi nāma pañcaṅgikassa tūriyassa [turiyassa
(sī. syā. pī.)] suvinītassa
suppaṭipatāḷitassa kusalehi susamannāhatassa saddo
hoti vaggu ca rajanīyo ca kamanīyo ca pemanīyo ca madanīyo ca; evamevaṃ tāsaṃ
devatānaṃ alaṅkārānaṃ saddo hoti vaggu ca rajanīyo ca kamanīyo ca
pemanīyo ca madanīyo ca. Atha kho āyasmā anuruddho indriyāni okkhipi.
Atha kho tā devatā ‘‘na khvayyo anuruddho sādiyatī’’ti [sādayatīti
(saddanītidhātumālā)] tatthevantaradhāyiṃsu.
Atha kho āyasmā anuruddho sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena
bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ
nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā anuruddho bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘Idhāhaṃ, bhante, divāvihāraṃ gato homi paṭisallīno. Atha kho, bhante,
sambahulā manāpakāyikā devatā yenāhaṃ tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā
maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhante, tā devatā
maṃ etadavocuṃ – ‘mayaṃ, bhante anuruddha, manāpakāyikā nāma devatā tīsu
ṭhānesu issariyaṃ kārema vasaṃ vattema. Mayaṃ, bhante anuruddha,
yādisakaṃ vaṇṇaṃ ākaṅkhāma tādisakaṃ vaṇṇaṃ ṭhānaso paṭilabhāma;
yādisakaṃ saraṃ ākaṅkhāma tādisakaṃ saraṃ ṭhānaso paṭilabhāma;
yādisakaṃ sukhaṃ ākaṅkhāma tādisakaṃ sukhaṃ ṭhānaso paṭilabhāma. Mayaṃ,
bhante anuruddha, manāpakāyikā nāma devatā imesu tīsu ṭhānesu issariyaṃ
kārema vasaṃ vattemā’ti. Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi – ‘aho vatimā
devatā sabbāva nīlā assu nīlavaṇṇā nīlavatthā nīlālaṅkārā’ti. Atha kho,
bhante, tā devatā mama cittamaññāya sabbāva nīlā ahesuṃ nīlavaṇṇā
nīlavatthā nīlālaṅkārā.
‘‘Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi – ‘aho vatimā devatā sabbāva pītā
assu…pe… sabbāva lohitakā assu…pe… sabbāva odātā assu odātavaṇṇā
odātavatthā odātālaṅkārā’ti . Atha kho, bhante, tā
devatā mama cittamaññāya sabbāva odātā ahesuṃ odātavaṇṇā odātavatthā
odātālaṅkārā.
‘‘Atha kho, bhante, tā devatā ekā ca gāyi ekā ca nacci ekā ca accharaṃ
vādesi. Seyyathāpi nāma pañcaṅgikassa tūriyassa suvinītassa
suppaṭipatāḷitassa kusalehi susamannāhatassa saddo hoti vaggu ca
rajanīyo ca kamanīyo ca pemanīyo ca madanīyo ca; evamevaṃ tāsaṃ
devatānaṃ alaṅkārānaṃ saddo hoti vaggu ca rajanīyo ca kamanīyo ca
pemanīyo ca madanīyo ca. Atha khvāhaṃ, bhante, indriyāni okkhipiṃ.
‘‘Atha kho, bhante, tā devatā ‘na khvayyo anuruddho sādiyatī’ti
tatthevantaradhāyiṃsu. Katihi nu kho, bhante, dhammehi samannāgato
mātugāmo kāyassa bhedā paraṃ maraṇā manāpakāyikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ
upapajjatī’’ti?
‘‘Aṭṭhahi kho, anuruddha, dhammehi samannāgato
mātugāmo kāyassa bhedā paraṃ maraṇā manāpakāyikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ
upapajjati. Katamehi aṭṭhahi? Idha, anuruddha, mātugāmo yassa mātāpitaro
bhattuno denti atthakāmā hitesino anukampakā anukampaṃ upādāya tassa hoti
pubbuṭṭhāyinī pacchānipātinī kiṅkārapaṭissāvinī manāpacārinī piyavādinī.
‘‘Ye te bhattu garuno [guruno
(ka.)] honti
– mātāti vā pitāti vā samaṇabrāhmaṇāti vā – te sakkaroti, garuṃ karoti [garukaroti
(sī. syā. pī.)],
māneti, pūjeti, abbhāgate ca āsanodakena paṭipūjeti.
‘‘Ye te bhattu abbhantarā kammantā – uṇṇāti vā kappāsāti vā – tattha
dakkhā hoti analasā tatrupāyāya [tatrūpāyāya
(sī.), a. ni. 4.35; 11.14] vīmaṃsāya
samannāgatā alaṃ kātuṃ alaṃ saṃvidhātuṃ.
‘‘Yo so bhattu abbhantaro antojano – dāsāti vā
pessāti vā kammakarāti vā – tesaṃ katañca katato jānāti akatañca akatato
jānāti, gilānakānañca balābalaṃ jānāti khādanīyaṃ bhojanīyañcassa
paccaṃsena [paccayena
(syā.), paccattaṃsena (ka.) a. ni. 5.33] saṃvibhajati.
‘‘Yaṃ bhattu āharati dhanaṃ vā dhaññaṃ vā jātarūpaṃ vā taṃ ārakkhena
guttiyā sampādeti, tattha ca hoti adhuttī athenī asoṇḍī avināsikā.
‘‘Upāsikā kho pana hoti buddhaṃ saraṇaṃ gatā dhammaṃ saraṇaṃ gatā
saṅghaṃ saraṇaṃ gatā.
‘‘Sīlavatī kho pana hoti – pāṇātipātā paṭiviratā,
adinnādānā paṭiviratā, kāmesumicchācārā paṭiviratā, musāvādā paṭiviratā,
surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā.
‘‘Cāgavatī kho pana hoti. Vigatamalamaccherena cetasā agāraṃ ajjhāvasati
muttacāgā [muttacāgī
(syā.)] payatapāṇinī [payatapāṇi
(sī.), payatapāṇī (syā. pī. ka.)] vossaggaratā
yācayogā dānasaṃvibhāgaratā.
‘‘Imehi kho, anuruddha, aṭṭhahi dhammehi samannāgato mātugāmo kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā manāpakāyikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’’ti.
‘‘Yo naṃ bharati sabbadā, niccaṃ ātāpi ussuko;
Taṃ sabbakāmadaṃ [taṃ
sabbakāmaharaṃ (sī. syā. pī.) sabbakāmaharaṃ (a. ni. 5.33] posaṃ,
bhattāraṃ nātimaññati.
‘‘Na cāpi sotthi bhattāraṃ, issāvādena rosaye;
Bhattu ca garuno sabbe, paṭipūjeti paṇḍitā.
‘‘Uṭṭhāhikā [uṭṭhāyikā
(ka.)] analasā,
saṅgahitaparijjanā;
Bhattu manāpaṃ carati, sambhataṃ anurakkhati.
‘‘Yā evaṃ vattati nārī, bhattu chandavasānugā;
Manāpā nāma te [manāpakāyikā
(sī. ka.)] devā,
yattha sā upapajjatī’’ti. chaṭṭhaṃ;
|
6. Anuruddhasuttavaṇṇanā
46.
Chaṭṭhe yenāyasmā
anuruddhoti tā kira devatā attano sampattiṃ oloketvā ‘‘kiṃ
nu kho nissāya ayaṃ sampatti amhehi laddhā’’ti āvajjamānā theraṃ disvā
‘‘mayaṃamhākaṃ ayyassa pubbe cakkavattirajjaṃ
karontassa pādaparicārikā hutvā tena dinnovāde ṭhatvā imaṃ sampattiṃ
labhimha, gacchāma theraṃ ānetvā imaṃ sampattiṃ anubhavissāmā’’ti divā
yenāyasmā anuruddho tenupasaṅkamiṃsu. Tīsu
ṭhānesūti tīsu kāraṇesu. Ṭhānaso
paṭilabhāmāti khaṇeneva labhāma. Saranti
vacanasaddaṃ vā gītasaddaṃ vā ābharaṇasaddaṃ vā. Pītā
assūtiādīni nīlā tāva jātā, pītā bhavituṃ na
sakkhissantītiādinā nayena cintetvā vitakketi. Tāpi ‘‘idāni ayyo amhākaṃ
pītabhāvaṃ icchati, idāni lohitabhāva’’nti tādisāva ahesuṃ.
Accharaṃ vādesīti
pāṇitalaṃ vādesi. Pañcaṅgikassāti
ātataṃ, vitataṃ, ātatavitataṃ, ghanaṃ, susiranti imehi pañcahi aṅgehi
samannāgatassa. Tattha ātataṃ nāma cammapariyonaddhesu bheriādīsu
ekatalatūriyaṃ, vitataṃ nāma ubhayatalaṃ, ātatavitataṃ nāma sabbaso pariyonaddhaṃ,
susiraṃ vaṃsādi, ghanaṃ sammādi. Suvinītassāti
ākaḍḍhanasithilakaraṇādīhi samucchitassa. Suppaṭipatāḷitassāti
pamāṇe ṭhitabhāvajānanatthaṃ suṭṭhu paṭipatāḷitassa. Kusalehi
susamannāhatassāti ye vādetuṃ kusalā chekā, tehi
vāditassa. Vaggūti
cheko sundaro. Rajanīyoti
rañjetuṃ samattho. Kamanīyoti
kāmetabbayutto. Khamanīyoti vā pāṭho, divasampi
suyyamāno khamateva, na nibbindatīti attho. Madanīyoti
mānamadapurisamadajanano. Indriyāni
okkhipīti ‘‘asāruppaṃ imā devatā karontī’’ti indriyāni
heṭṭhā khipi, na akkhīni ummīletvā olokesi. Na
khvayyo anuruddho sādiyatīti ‘‘mayaṃ naccāma gāyāma, ayyo
pana anuruddho na kho sādiyati, akkhīni ummīletvā na oloketi, kiṃ mayaṃ
naccitvā vā gāyitvā vā karissāmā’’ti tattheva antaradhāyiṃsu. Yena
bhagavā tenupasaṅkamīti tāsaṃ devatānaṃ ānubhāvaṃ disvā
‘‘katihi nu kho dhammehi samannāgato mātugāmo manāpakāyike devaloke
nibbattatī’’ti imamatthaṃ pucchituṃ upasaṅkami.
|
(VI) (46) Tôn Gỉả Anuruddha
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại khu vườn Ghosita. Lúc bấy giờ
Tôn giả Anuruddha, đang đi nghỉ ban ngày, ngồi Thiền tịnh. Rồi rất nhiều
Thiên nữ với thân khả ái đi đến Tôn giả Anuruddha, sau khi đến, đảnh lễ
Tôn giả Anuruddha rồi đứng một bên. Đứng một bên, các Thiên nữ ấy thưa
với Tôn giả:
- Chúng tôi là những thiên nữ với thân khả ái. Trên ba địa hạt, chúng
tôi có quyền lực và có tự tại! Thưa Tôn giả, chúng tôi muốn có h́nh sắc
như thế nào, chúng tôi liền được h́nh sắc ấy ngay lập tức. Chúng tôi
muốn được tiếng như thế nào, chúng tôi liền được tiếng như thế ấy ngay
lập tức. Chúng tôi muốn được lạc thọ như thế nào, chúng tôi liền được
lạc ấy ngay lập tức. Thưa Tôn giả Anurudha, chúng tôi là những thiên nữ
với thân khả ái. Trên ba địa hạt, chúng tôi có quyền lực và có tự tại.
2. Rồi Tôn giả Anuruddha suy nghĩ: "Mong rằng các Thiên nữ này tất cả
trở thành xanh, dung sắc xanh, y áo xanh, trang điểm xanh". Rồi các
Thiên nữ ấy, biết được tâm của Tôn giả Anuruddha, tất cả đều trở thành
xanh, dung sắc xanh, y áo xanh, trang điểm xanh. Rồi Tôn giả Anuruddha
suy nghĩ như sau: "Mong rằng các Thiên nữ này tất cả trở thành vàng ...
tất cả trở thành đỏ ... tất cả trở thành trắng, dung sắc trắng, y áo
trắng, trang sức trắng. Rồi các Thiên nữ ấy, biết được tâm của Tôn giả
Anuruddha, tất cả đều trở thành trắng, dung sắc trắng, y áo trắng, trang
sức trắng. Rồi các Thiên nữ ấy, một người hát, một người múa, một người
vỗ tay. Ví như năm loại nhạc khí, khéo ḥa điệu, khéo chơi, khéo đánh
bởi người thiện xảo, thời tiếng phát ra được đáng ưa, khả lạc, khả dục,
khả ái, mê ly. Cũng vậy, là nhạc của các Thiên nữ khéo trang điểm ấy,
tiếng phát ra được đáng ưa, khả lạc, khả dục, khả ái, mê ly. Nhưng Tôn
giả Anuruddha giữ các căn nhiếp phục. Các Thiên nữ ấy nghĩ rằng: "Tôn
giả Anuruddha không có thưởng thức", liền biến mất tại chỗ.
3. Rồi Tôn giả Anuruddha, vào buổi chiều, từ Thiền định đứng dậy đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Anuruddha bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, ở đây, con đang đi nghỉ ban ngày, ngồi Thiền tịnh. Rồi
rất nhiều Thiên nữ với thân khả ái đi đến con, sau khi đến, đảnh lễ con
rồi đứng một bên. Đứng một bên, các Thiên nữ ấy thưa với con:
- Chúng tôi là những thiên nữ với thân khả ái. Trên ba địa hạt, chúng
tôi có quyền lực và có tự tại! Thưa Tôn giả, chúng tôi muốn có h́nh sắc
như thế nào, chúng tôi liền được h́nh sắc ấy ngay lập tức. Chúng tôi
muốn có tiếng như thế nào, chúng tôi liền được tiếng như thế ấy ngay lập
tức. Chúng tôi muốn được lạc thọ như thế nào, chúng tôi liền được lạc
thọ ấy ngay lập tức. Thưa Tôn giả, Anurudha chúng tôi là những thiên nữ
với thân h́nh khả ái. Trên ba địa hạt, chúng tôi có quyền lực và có tự
tại.
2. Bạch Thế Tôn. Con suy nghĩ như sau: "Mong rằng các Thiên nữ này tất
cả trở thành xanh, dung sắc xanh, y áo xanh, trang điểm xanh". Rồi các
Thiên nữ ấy, biết được tâm của con, tất cả đều trở thành xanh, dung sắc
xanh, y áo xanh, trang điểm xanh. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như
sau: "Mong rằng các Thiên nữ này tất cả trở thành vàng ... tất cả trở
thành đỏ ... tất cả trở thành trắng, dung sắc trắng, y áo trắng, trang
sức trắng. Rồi bạch Thế Tôn, các Thiên nữ ấy, biết được tâm của con, tất
cả đều trở thành trắng, dung sắc trắng, y áo trắng, trang sức trắng. Rồi
bạch Thế Tôn, các Thiên nữ ấy, một người hát, một người múa, một người
vỗ tay. Ví như năm loại nhạc khí, khéo ḥa điệu, khéo chơi, khéo đánh
bởi người thiện xảo, thời tiếng phát ra được đáng ưa, khả lạc, khả dục,
khả ái, mê ly. Cũng vậy, là nhạc của các Thiên nữ khéo trang điểm ấy,
tiếng phát ra được dịu ngọt, đáng ưa, khả lạc, khả dục, khả ái, mê ly.
Nhưng bạch Thế Tôn, con giữ các căn nhiếp phục. Các Thiên nữ ấy nghĩ
rằng: "Con không có thưởng thức", liền biến mất tại chỗ.
Bạch Thế Tôn, thành tựu bao nhiêu pháp, nữ nhân sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh cộng trú với các Thiên nữ ấy với thân khả ái?
4. - Này, Anuruddha, đầy đủ tám pháp, nữ nhân sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh cộng trú với các Thiên nữ ấy với thân khả ái. Thế nào
là tám?
5. Ở đây, này Anuruddha, nữ nhân đối với người chồng nào mẹ cha gả cho,
v́ muốn lợi ích, v́ t́m hạnh phúc, v́ ḷng thương tưởng, v́ ḷng từ mẫn
khởi lên đối với người ấy, nữ nhân dậy trước, đi ngủ sau cùng, vui ḷng
nhận mọi công việc, xử sự đẹp ḷng, lời nói dễ thương. Những ai có người
chồng kính trọng Sa-môn, Bà-la-môn như cha mẹ, nữ nhân ấy cung kính tôn
trọng, đảnh lễ, cúng dường, và khi họ đến, sẽ dâng hiến chỗ ngồi và
nước. Phàm có những việc trong nhà, thuộc về len hay vải bông, ở đây, nữ
nhân ấy thông thạo, không biếng nhác, tự t́m phương pháp làm, vừa đủ để
tự ḿnh làm, vừa đủ để sắp đặt người làm. Trong nhà người chồng, phàm có
nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ, nữ nhân biết công việc
của họ với công việc đă làm, biết sự thiếu xót của họ với công việc
không làm; biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh;
biết chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo từng phần
của ḿnh. Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, nữ
nhân ấy bảo vệ, pḥng hộ chúng, giữ ǵn để khỏi ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống
rượu, kẻ phá hoại. Nữ cư sĩ quy y Phật, quy y Pháp, Quy y Tăng. Nữ cư sĩ
giữ giới, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong
các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Nữ cư sĩ bố
thí, sống ở gia đ́nh với tâm tư từ bỏ uế của xan tham, bố thí rộng răi,
với bàn tay cởi mở, vui thích từ bỏ, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu, vui
thích chia xẻ các vật dụng bố thí. Thành tựu tám pháp này, nữ nhân sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các chư Thiên ấy với
thân khả ái.
Hăy thường yêu thương chồng
Luôn nỗ lực cố gắng
Người đem lại lạc thú
Chớ khinh thường người chồng
Chớ làm chồng không vui
Chớ làm chồng tức tối
Với những người ganh tị
Chồng cung kính những ai
Hăy đảnh lễ tất cả
V́ nàng người có trí
Hoạt động thật nhanh nhẹn
Giữa các người làm việc
Xử sự thật khả ái
Biết giữ tài sản chồng
Người vợ xử như vậy
Làm thỏa măn ước vọng,
Ưa thích của người chồng,
Sẽ được sanh tại chỗ
Các chư Thiên khả ái.
|
7. Dutiyavisākhāsuttaṃ
47.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati
pubbārāme migāramātupāsāde. Atha kho visākhā migāramātā…pe… ekamantaṃ
nisinnaṃ kho visākhaṃ migāramātaraṃ bhagavā etadavoca –
‘‘Aṭṭhahi kho, visākhe, dhammehi samannāgato mātugāmo kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā manāpakāyikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ
upapajjati. Katamehi aṭṭhahi? Idha, visākhe, mātugāmo yassa mātāpitaro
bhattuno denti atthakāmā hitesino anukampakā anukampaṃ upādāya tassa
hoti pubbuṭṭhāyinī pacchānipātinī kiṅkārapaṭissāvinī manāpacārinī
piyavādinī…pe….
‘‘Cāgavatī kho pana hoti. Vigatamalamaccherena
cetasā agāraṃ ajjhāvasati muttacāgā payatapāṇinī vossaggaratā yācayogā
dānasaṃvibhāgaratā. Imehi kho, visākhe, aṭṭhahi dhammehi samannāgato
mātugāmo kāyassa bhedā paraṃ maraṇā manāpakāyikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ
upapajjatī’’ti.
‘‘Yo naṃ bharati sabbadā, niccaṃ ātāpi ussuko;
Taṃ sabbakāmadaṃ posaṃ, bhattāraṃ nātimaññati.
‘‘Na cāpi sotthi bhattāraṃ, issāvādena rosaye;
Bhattu ca garuno sabbe, paṭipūjeti paṇḍitā.
‘‘Uṭṭhāhikā analasā, saṅgahitaparijjanā;
Bhattu manāpaṃ carati, sambhataṃ anurakkhati.
‘‘Yā evaṃ vattati nārī, bhattu chandavasānugā;
Manāpā nāma te [manāpakāyikā
(sī. ka.)] devā,
yattha sā upapajjatī’’ti. sattamaṃ;
|
|
(VII) (47) Visàkhà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatth́, tại Đông viên, lâu đài mẹ của
Migàrà. Rồi Visàkhà, mẹ của Migàrà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàrà
đang ngồi một bên:
2. ... (Thế Tôn thuyết như kinh số 46 và bài kệ, với những thay đổi
cần thiết) .
|
8. Nakulamātāsuttaṃ
48.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā bhaggesu viharati
suṃsumāragire [suṃsumāragire
(sī. syā. pī.)] bhesakaḷāvane
migadāye. Atha kho nakulamātā gahapatānī yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā…pe…. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho nakulamātaraṃ gahapatāniṃ
bhagavā etadavoca –
‘‘Aṭṭhahi kho, nakulamāte, dhammehi samannāgato mātugāmo kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā manāpakāyikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ
upapajjati. Katamehi aṭṭhahi? Idha, nakulamāte, mātugāmo yassa
mātāpitaro bhattuno denti atthakāmā hitesino anukampakā anukampaṃ
upādāya tassa hoti pubbuṭṭhāyinī pacchānipātinī kiṅkārapaṭissāvinīmanāpacārinī
piyavādinī.
‘‘Ye te bhattu garuno honti – mātāti vā pitāti vā samaṇabrāhmaṇāti vā –
te sakkaroti garuṃ karoti māneti pūjeti, abbhāgate ca āsanodakena
paṭipūjeti.
‘‘Ye te bhattu abbhantarā kammantā – uṇṇāti vā kappāsāti vā – tattha
dakkhā hoti analasā tatrupāyāya vīmaṃsāya samannāgatā alaṃ kātuṃ alaṃ
saṃvidhātuṃ.
‘‘Yo so bhattu abbhantaro antojano – dāsāti vā pessāti vā kammakarāti vā
– tesaṃ katañca katato jānāti akatañca akatato jānāti, gilānakānañca
balābalaṃ jānāti khādanīyaṃ bhojanīyañcassa paccaṃsena saṃvibhajati.
‘‘Yaṃ bhattā āharati dhanaṃ vā dhaññaṃ vā rajataṃ
vā jātarūpaṃ vā taṃ ārakkhena guttiyā sampādeti, tattha ca hoti adhuttī
athenī asoṇḍī avināsikā.
‘‘Upāsikā kho pana hoti buddhaṃ saraṇaṃ gatā dhammaṃ saraṇaṃ gatā
saṅghaṃ saraṇaṃ gatā.
‘‘Sīlavatī kho pana hoti – pāṇātipātā paṭiviratā…pe…
surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā…pe….
‘‘Cāgavatī kho pana hoti vigatamalamaccherena cetasā agāraṃ
ajjhāvasati muttacāgā payatapāṇinī vossaggaratā yācayogā
dānasaṃvibhāgaratā.
‘‘Imehi kho, nakulamāte, aṭṭhahi dhammehi samannāgato mātugāmo kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā manāpakāyikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’’ti.
‘‘Yo naṃ bharati sabbadā, niccaṃ ātāpi ussuko;
Taṃ sabbakāmadaṃ posaṃ, bhattāraṃ nātimaññati.
‘‘Na cāpi sotthi bhattāraṃ, issāvādena rosaye;
Bhattu ca garuno sabbe, paṭipūjeti paṇḍitā.
‘‘Uṭṭhāhikā analasā, saṅgahitaparijjanā;
Bhattu manāpaṃ carati, sambhataṃ anurakkhati.
‘‘Yā evaṃ vattati nārī, bhattu chandavasānugā;
Manāpā nāma te [manāpakāyikā
(sī.)] devā,
yattha sā upapajjatī’’ti. aṭṭhamaṃ;
|
|
(VIII) (48) Nakulamàtà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Summuràma,
rừng Bhesakala, tại vườn Lộc Uyển. Rồi nữ dân chúng Nakulamàtà đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi Thế
Tôn nói với nữ gia chủ Nakulamàtà đang ngồi một bên:
2. ... (Thế Tôn thuyết như kinh số 46 và bài kệ, với những thay đổi
cần thiết) .
|
9. Paṭhamaidhalokikasuttaṃ
49.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde.
Atha kho visākhā migāramātā yena bhagavā tenupasaṅkami…pe…. Ekamantaṃ
nisinnaṃ kho visākhaṃ migāramātaraṃ bhagavā etadavoca –
‘‘Catūhi kho, visākhe, dhammehi samannāgato
mātugāmo idhalokavijayāya paṭipanno hoti, ayaṃsa loko āraddho hoti.
Katamehi catūhi? Idha, visākhe, mātugāmo susaṃvihitakammanto hoti,
saṅgahitaparijano, bhattu manāpaṃ carati, sambhataṃ anurakkhati.
‘‘Kathañca , visākhe, mātugāmo susaṃvihitakammanto
hoti? Idha, visākhe, mātugāmo ye te bhattu abbhantarā kammantā – uṇṇāti
vā kappāsāti vā – tattha dakkhā hoti analasā tatrupāyāya vīmaṃsāya
samannāgatā alaṃ kātuṃ alaṃ saṃvidhātuṃ. Evaṃ kho, visākhe, mātugāmo
susaṃvihitakammanto hoti.
‘‘Kathañca, visākhe, mātugāmo saṅgahitaparijano hoti? Idha, visākhe,
mātugāmo yo so bhattu abbhantaro antojano – dāsāti
vā pessāti vā kammakarāti vā – tesaṃ katañca katato jānāti akatañca
akatato jānāti, gilānakānañca balābalaṃ jānāti khādanīyaṃ
bhojanīyañcassa paccaṃsena saṃvibhajati. Evaṃ kho, visākhe, mātugāmo
saṅgahitaparijano hoti.
‘‘Kathañca, visākhe, mātugāmo bhattu manāpaṃ carati? Idha, visākhe,
mātugāmo yaṃ bhattu amanāpasaṅkhātaṃ taṃ jīvitahetupi na ajjhācarati.
Evaṃ kho, visākhe, mātugāmo bhattu manāpaṃ carati.
‘‘Kathañca, visākhe, mātugāmo sambhataṃ anurakkhati? Idha, visākhe,
mātugāmo yaṃ bhattā āharati dhanaṃ vā dhaññaṃ vā rajataṃ vā jātarūpaṃ vā
taṃ ārakkhena guttiyā sampādeti, tattha ca hoti adhuttī athenī asoṇḍī
avināsikā. Evaṃ kho, visākhe, mātugāmo sambhataṃ anurakkhati. Imehi kho,
visākhe, catūhi dhammehi samannāgato mātugāmo idhalokavijayāya paṭipanno
hoti, ayaṃsa loko āraddho hoti.
‘‘Catūhi kho , visākhe, dhammehi samannāgato
mātugāmo paralokavijayāya paṭipanno hoti, paraloko āraddho hoti.
Katamehi catūhi? Idha, visākhe, mātugāmo saddhāsampanno hoti,
sīlasampanno hoti, cāgasampanno hoti, paññāsampanno hoti.
‘‘Kathañca , visākhe, mātugāmo saddhāsampanno
hoti? Idha, visākhe, mātugāmo saddho hoti, saddahati tathāgatassa bodhiṃ
– ‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato
lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho
bhagavā’ti. Evaṃ kho, visākhe, mātugāmo saddhāsampanno hoti.
‘‘Kathañca, visākhe, mātugāmo sīlasampanno hoti? Idha ,
visākhe, mātugāmo pāṇātipātā paṭivirato hoti…pe…
surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato hoti. Evaṃ kho, visākhe, mātugāmo
sīlasampanno hoti.
‘‘Kathañca , visākhe, mātugāmo cāgasampanno hoti?
Idha, visākhe, mātugāmo vigatamalamaccherena cetasā agāraṃ ajjhāvasati
muttacāgā payatapāṇinī vossaggaratā yācayogā dānasaṃvibhāgaratā. Evaṃ
kho, visākhe, mātugāmo cāgasampanno hoti.
‘‘Kathañca, visākhe, mātugāmo paññāsampanno hoti? Idha, visākhe,
mātugāmo paññavā hoti…pe… evaṃ kho, visākhe, mātugāmo paññāsampanno
hoti. Imehi kho, visākhe, catūhi dhammehi
samannāgato mātugāmo paralokavijayāya paṭipanno hoti, paraloko āraddho
hotī’’ti.
‘‘Susaṃvihitakammantā, saṅgahitaparijjanā;
Bhattu manāpaṃ carati, sambhataṃ anurakkhati.
‘‘Saddhā sīlena sampannā, vadaññū vītamaccharā;
Niccaṃ maggaṃ visodheti, sotthānaṃ samparāyikaṃ.
‘‘Iccete aṭṭha dhammā ca, yassā vijjanti nāriyā;
Tampi sīlavatiṃ āhu, dhammaṭṭhaṃ saccavādiniṃ.
‘‘Soḷasākārasampannā, aṭṭhaṅgasusamāgatā;
Tādisī sīlavatī upāsikā;
Upapajjati devalokaṃ manāpa’’nti. navamaṃ;
|
9-10. Idhalokikasuttadvayavaṇṇanā
49-50.
Navame ayaṃ’sa
loko āraddho hotīti ayamassa loko idhaloke karaṇamattāya
āraddhattā paripuṇṇattā āraddho hoti paripuṇṇo. Soḷasākārasampannāti
sutte vuttehi aṭṭhahi, gāthāsu aṭṭhahīti soḷasahi ākārehi samannāgatā,
yāni vā aṭṭhaṅgāni parampi tesu samādapetīti evampi soḷasākārasampannāti
eke. Saddhāsīlapaññā panettha missikā kathitā. Dasamaṃ bhikkhusaṅghassa
kathitaṃ. Sabbasuttesu pana yaṃ na vuttaṃ, taṃ heṭṭhā āgatanayattā
uttānatthamevāti.
|
(IX) (49) Ở Đời Này
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatth́, tại Đông viên, lâu đài mẹ của
Migàrà. Rồi Visàkhà, mẹ của Migàrà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàrà
đang ngồi một bên:
2. - Này Visàkhà, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở
đời này. Đời này rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn?
3. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc, biết
thâu nhiếp các người phục vụ, sở hành vừa ư chồng, biết giữ ǵn tài sản
cất chứa. Này Visàkhà, thế nào là nữ nhân có khả năng khéo làm các công
việc?
4. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân phàm có những công việc trong nhà, thuộc
về len hay vải bông, ở đây, nữ nhân ấy thông thạo, không biếng nhác, tự
t́m phương pháp làm, vừa đủ để tự ḿnh làm, vừa đủ để sắp đặt người làm.
Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân có khả năng khéo làm những công việc.
Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân biết thâu nhiếp các người phục vụ?
5. Ở đây, này Visàkhà, trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay
người đưa tin, hay người công thợ, nữ nhân biết công việc của họ với
công việc đă làm, biết sự thiếu xót của họ với công việc không làm; biết
sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh; biết chia các đồ
ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo từng phần của ḿnh. Như
vậy, này Visàkhà, là nữ nhân biết thâu nhiếp những người phục vụ. Và này
Visàkhà, thế nào là nữ nhân sở hành vừa ư chồng?
6. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân, những ǵ người chồng không vừa ư, dầu
cho có v́ sanh mạng, nàng cũng không làm. Như vậy, này Visàkhà, là nữ
nhân sở hành vừa ư chồng. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân biết giữ
ǵn tài sản thâu hoạch được?
7. Ở đây, này Visàkhà, Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người
chồng đem về, nữ nhân ấy bảo vệ, pḥng hộ chúng, giữ ǵn để khỏi bọn ăn
trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại. Như vậy, là nữ nhân biết giữ
ǵn tài sản thâu hoạch được.
Thành tựu bốn pháp này, này Visàkhà, nữ nhân thành tựu với sự chiến
thắng ở đời. Đời nay rơi vào trong tầm tay của nàng.
8. Này Visàkhà, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời
sau. Đời sau rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn?
9. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân đầy đủ ḷng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ
bố thí, đầy đủ trí tuệ. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân đầy đủ ḷng
tin?
10. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân có ḷng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của
Như Lai: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật, Thế Tôn ". Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ ḷng tin.
Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân đầy đủ giới đức?
11. Ở đây, này Visàkhà, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ
tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu.
Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ giới đức. Và này Visàkhà, thế
nào là nữ nhân đầy đủ bố thí?
12. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân sống ở gia đ́nh với tâm tư từ bỏ cấu uế
của xan tham, bố thí rộng răi, với bàn tay cởi mở, vui thích từ bỏ, sẵn
sàng đáp ứng các yêu cầu, vui thích chia xẻ các vật dụng bố thí. Như
vậy, này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ bố thí. Và này Visàkhà, thế nào là
nữ nhân đầy đủ trí tuệ?
13. Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh
diệt, với Thánh thể nhập đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Như vậy,
này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ trí tuệ.
Thành tựu bốn pháp này, này Visàkhà, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở
đời sau. Đời sau rơi vào trong tầm tay của nàng.
Khéo làm các công việc
Thâu nhiếp người phục vụ
Sở hành vừa ư chồng
Giữ ǵn của cất chứa
Đầy đủ tín và giới
Bố thí, không xan tham
Rửa sạch đường thượng đạo
Đến đời sau an lành
Như vậy là tám pháp
Nữ nhân có đầy đủ
Được gọi bậc có giới
Trú pháp, nói chân thật
Đủ mười sáu hành tướng
Thành tựu tám chi phần
Nữ cư sĩ như vậy
Với giới hạnh đầy đủ
Sanh làm vị Thiên nữ
Với thân thật khả ái.
|
10. Dutiyaidhalokikasuttaṃ
50.
‘‘Catūhi , bhikkhave, dhammehi samannāgato
mātugāmo idhalokavijayāya paṭipanno hoti, ayaṃsa loko āraddho hoti.
Katamehi catūhi? Idha , bhikkhave, mātugāmo
susaṃvihitakammanto hoti, saṅgahitaparijano, bhattu manāpaṃ carati,
sambhataṃ anurakkhati.
‘‘Kathañca, bhikkhave, mātugāmo susaṃvihitakammanto hoti? Idha,
bhikkhave, mātugāmo ye te bhattu abbhantarā
kammantā…pe… evaṃ kho, bhikkhave, mātugāmo susaṃvihitakammanto hoti.
‘‘Kathañca, bhikkhave, mātugāmo saṅgahitaparijano hoti? Idha, bhikkhave,
mātugāmo yo so bhattu abbhantaro antojano…pe… evaṃ kho, bhikkhave,
mātugāmo saṅgahitaparijano hoti.
‘‘Kathañca , bhikkhave, mātugāmo bhattu manāpaṃ
carati? Idha, bhikkhave, mātugāmo yaṃ bhattu amanāpasaṅkhātaṃ taṃ
jīvitahetupi na ajjhācarati. Evaṃ kho, bhikkhave, mātugāmo bhattu
manāpaṃ carati.
‘‘Kathañca, bhikkhave, mātugāmo sambhataṃ anurakkhati? Idha, bhikkhave,
mātugāmo yaṃ bhattā āharati…pe… evaṃ kho, bhikkhave, mātugāmo sambhataṃ
anurakkhati. Imehi kho, bhikkhave, catūhi dhammehi samannāgato mātugāmo
idhalokavijayāya paṭipanno hoti, ayaṃsa loko āraddho hoti.
‘‘Catūhi, bhikkhave, dhammehi samannāgato mātugāmo paralokavijayāya
paṭipanno hoti, paraloko āraddho hoti. Katamehi catūhi? Idha, bhikkhave,
mātugāmo saddhāsampanno hoti, sīlasampanno hoti, cāgasampanno hoti,
paññāsampanno hoti.
‘‘Kathañca, bhikkhave, mātugāmo saddhāsampanno hoti? Idha, bhikkhave,
mātugāmo saddho hoti…pe… evaṃ kho, bhikkhave,
mātugāmo saddhāsampanno hoti.
‘‘Kathañca , bhikkhave, mātugāmo sīlasampanno
hoti? Idha, bhikkhave, mātugāmo pāṇātipātā paṭivirato hoti…pe…
surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato hoti. Evaṃ kho, bhikkhave,
mātugāmo sīlasampanno hoti.
‘‘Kathañca, bhikkhave, mātugāmo cāgasampanno hoti? Idha, bhikkhave,
mātugāmo vigatamalamaccherena cetasā agāraṃ
ajjhāvasati…pe… evaṃ kho , bhikkhave, mātugāmo
cāgasampanno hoti.
‘‘Kathañca, bhikkhave, mātugāmo paññāsampanno hoti? Idha, bhikkhave,
mātugāmo paññavā hoti…pe… evaṃ kho, bhikkhave, mātugāmo paññāsampanno
hoti. Imehi kho, bhikkhave, catūhi dhammehi samannāgato mātugāmo
paralokavijayāya paṭipanno hoti, paraloko āraddho hotī’’ti.
‘‘Susaṃvihitakammantā, saṅgahitaparijjanā;
Bhattu manāpaṃ carati, sambhataṃ anurakkhati.
‘‘Saddhā sīlena sampannā, vadaññū vītamaccharā;
Niccaṃ maggaṃ visodheti, sotthānaṃ samparāyikaṃ.
‘‘Iccete aṭṭha dhammā ca, yassā vijjanti nāriyā;
Tampi sīlavatiṃ āhu, dhammaṭṭhaṃ saccavādiniṃ.
‘‘Soḷasākārasampannā, aṭṭhaṅgasusamāgatā;
Tādisī sīlavatī upāsikā, upapajjati devalokaṃ manāpa’’nti. dasamaṃ;
|
49-50.
Navame ayaṃ’sa
loko āraddho hotīti ayamassa loko idhaloke karaṇamattāya
āraddhattā paripuṇṇattā āraddho hoti paripuṇṇo. Soḷasākārasampannāti
sutte vuttehi aṭṭhahi, gāthāsu aṭṭhahīti soḷasahi ākārehi samannāgatā,
yāni vā aṭṭhaṅgāni parampi tesu samādapetīti evampi soḷasākārasampannāti
eke. Saddhāsīlapaññā panettha missikā kathitā. Dasamaṃ bhikkhusaṅghassa
kathitaṃ. Sabbasuttesu pana yaṃ na vuttaṃ, taṃ heṭṭhā āgatanayattā
uttānatthamevāti.
|
(X) (50) Đời Này
... (Thế Tôn nói lại kinh 49 và cả bài kệ cho các Tỷ-kheo).
|