1. Icchāsuttaṃ
61.[a. ni. 8.77] ‘‘Aṭṭhime ,
bhikkhave, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame aṭṭha? Idha,
bhikkhave, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino icchā
uppajjati lābhāya. So uṭṭhahati ghaṭati vāyamati lābhāya. Tassa
uṭṭhahato ghaṭato vāyamato lābhāya lābho nuppajjati. So tena alābhena
socati kilamati paridevati, urattāḷiṃ kandati, sammohaṃ āpajjati. Ayaṃ
vuccati, bhikkhave – ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya ,
uṭṭhahati ghaṭati vāyamati lābhāya, na ca lābhī,
socī ca paridevī ca, cuto ca saddhammā’’’.
‘‘Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino
icchā uppajjati lābhāya. So uṭṭhahati ghaṭati vāyamati lābhāya. Tassa
uṭṭhahato ghaṭato vāyamato lābhāya lābho uppajjati. So tena lābhena
majjati pamajjati pamādamāpajjati. Ayaṃ vuccati,
bhikkhave – ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, uṭṭhahati ghaṭati vāyamati
lābhāya, lābhī ca madī ca pamādī ca, cuto ca saddhammā’’’.
‘‘Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino
icchā uppajjati lābhāya. So na uṭṭhahati na ghaṭati na vāyamati lābhāya.
Tassa anuṭṭhahato aghaṭatoavāyamato lābhāya lābho
nuppajjati. So tena alābhena socati, kilamati, paridevati, urattāḷiṃ
kandati, sammohaṃ āpajjati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave – ‘bhikkhu iccho
viharati lābhāya, na uṭṭhahati na ghaṭati na vāyamati lābhāya, na ca
lābhī, socī ca paridevī ca, cuto ca saddhammā’’’.
‘‘Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino
icchā uppajjati lābhāya. So na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati
lābhāya. Tassa anuṭṭhahato, aghaṭato, avāyamato lābhāya lābho uppajjati.
So tena lābhena majjati, pamajjati, pamādamāpajjati. Ayaṃ vuccati,
bhikkhave – ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, na uṭṭhahati na ghaṭati na
vāyamati lābhāya, lābhī ca madī ca, pamādī ca, cuto ca saddhammā’’’.
‘‘Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino
icchā uppajjati lābhāya. So uṭṭhahati ghaṭati vāyamati lābhāya. Tassa
uṭṭhahato ghaṭato vāyamatolābhāya lābho
nuppajjati. So tena alābhena na socati na kilamati na paridevati, na
urattāḷiṃ kandati, na sammohaṃ āpajjati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave –
‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, uṭṭhahati ghaṭati vāyamati lābhāya, na ca
lābhī, na ca socī na ca paridevī, accuto ca saddhammā’’’.
‘‘Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino
icchā uppajjati lābhāya. So uṭṭhahati ghaṭati vāyamati lābhāya. Tassa uṭṭhahato
ghaṭato vāyamato lābhāya lābho uppajjati. So tena lābhena na majjati, na
pamajjati, na pamādamāpajjati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave – ‘bhikkhu iccho
viharati lābhāya, uṭṭhahati ghaṭati vāyamati lābhāya, lābhī ca, na ca
madī na ca pamādī, accuto ca saddhammā’’’.
‘‘Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino
icchā uppajjati lābhāya. So na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati
lābhāya. Tassa anuṭṭhahato, aghaṭato, avāyamato lābhāya lābho
nuppajjati. So tena alābhena na socati, na kilamati, na paridevati, na
urattāḷiṃ kandati, na sammohaṃ āpajjati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave –
‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati
lābhāya , na ca lābhī, na ca socī na ca paridevī,
accuto ca saddhammā’’’.
‘‘Idha pana, bhikkhave, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino
icchā uppajjati lābhāya. So na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati
lābhāya. Tassa anuṭṭhahato aghaṭato avāyamato lābhāya lābho uppajjati.
So tena lābhena na majjati, na pamajjati, na pamādamāpajjati. Ayaṃ
vuccati, bhikkhave – ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, na uṭṭhahati, na
ghaṭati, na vāyamati lābhāya, lābhī ca, na ca madī na ca pamādī, accuto
ca saddhammā ’. Ime kho, bhikkhave, aṭṭha puggalā
santo saṃvijjamānā lokasmi’’nti. Paṭhamaṃ.
|
1. Icchāsuttavaṇṇanā
61.
Sattamassa paṭhame pavivittassāti kāyavivekena vivittassa. Nirāyattavuttinoti
katthaci anāyattavuttino vipassanākammikassa. Lābhāyāti
catupaccayalābhāya. Socī ca paridevī cāti sokī ca paridevī ca. Socicca
parideviccātipi pāṭho. Cuto ca saddhammāti taṃkhaṇaṃyeva vipassanāsaddhammā cuto.
Imasmiṃ sutte vaṭṭavivaṭṭaṃ kathitaṃ.
|
(I) (61) Dục
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế
nào là tám?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có
tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn tinh
tấn để được lợi dưỡng. Dầu cho hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi
dưỡng, nhưng lợi dưỡng không khởi lên. Do không được lợi dưỡng ấy, vị ấy
sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này các
Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn
chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng. Do không được lợi dưỡng ấy, vị ấy sầu
muộn, than van, khóc lóc, bỏ rơi diệu pháp.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có
tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn tinh
tấn để được lợi dưỡng. Do hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi
dưỡng, lợi dưỡng khởi lên. Với lợi dưỡng ấy, vị ấy đắm say, phóng dật,
rơi vào trạng thái đắm say, phóng dật. Đây gọi là Tỷ-kheo sống muốn lợi
dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng,
trở thành đắm say, phóng dật, và bỏ rơi diệu pháp.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Có vị Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không
có tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không
phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng. Do vị ấy không hăng hái,
không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng không khởi
lên. Vị ấy do không được lợi dưỡng, nên sầu muộn, than van, khóc lóc,
đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Đây gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng,
không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; không
được lợi dưỡng, vị ấy sầu muộn, than van, khóc lóc, bỏ rơi diệu pháp.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có
tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không
phấn chấn không tinh tấn để được lợi dưỡng. Dầu vị ấy không hăng hái,
không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng, nhưng lợi dưỡng khởi
lên. Với lợi dưỡng ấy, vị ấy đắm say, phóng dật, rơi vào trạng thái đắm
say, phóng dật. Đây gọi là Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, không hăng hái,
không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng, trở
thành đắm say, phóng dật, và bỏ rơi diệu pháp.
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có
tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn,
tinh tấn để được lợi dưỡng. Dầu cho vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn
để được lợi dưỡng, lợi dưỡng không khởi lên. Vị ấy, dầu không được lợi
dưỡng, không có sầu muộn, không có than van, không có khóc lóc, không có
đập ngực, không có rơi vào bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là
Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi
dưỡng; không được lợi dưỡng, không có sầu muộn, không có than van, và
không bỏ rơi diệu pháp.
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có
tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng. Vị ấy hăng hái, phấn chấn,
tinh tấn để được lợi dưỡng. Do vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để
được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên. Với lợi dưỡng ấy, vị ấy không đắm
say, không phóng dật, không có rơi vào trạng thái đắm say. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn,
tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng, không đắm say, không phóng
dật, và không bỏ rơi diệu pháp.
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có
tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không
phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng. Do vị ấy không hăng hái,
không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng không khởi
lên. Vị ấy dầu không được lợi dưỡng, không có sầu muộn, không có than
van, không có khóc lóc, không có đập ngực, không có rơi vào bất tỉnh.
Đây gọi là Tỷ-kheo sống muốn lợi dưỡng, không hăng hái, không phấn chấn,
không tinh tấn để được lợi dưỡng; không được lợi dưỡng, vị ấy không sầu
muộn, không than van, không khóc lóc, và không bỏ rơi diệu pháp.
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có
tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng. Vị ấy không hăng hái, không
phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng. Dầu cho vị ấy không hăng
hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi
lên. Với lợi dưỡng ấy, vị ấy không đắm say, không phóng dật, không có
rơi vào trạng thái đắm say. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống
muốn lợi dưỡng, không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được
lợi dưỡng; được lợi dưỡng, không đắm say, không phóng dật, và không bỏ
rơi diệu pháp.
Này các Tỷ-kheo, có tám hạng người này sống có mặt, hiện hữu ở đời.
|
2. Alaṃsuttaṃ
62. ‘‘Chahi , bhikkhave, dhammehi samannāgato
bhikkhu alaṃ attano alaṃ paresaṃ. Katamehi chahi? Idha, bhikkhave,
bhikkhu khippanisanti ca hoti kusalesu dhammesu; sutānañca dhammānaṃ
dhāraṇajātiko [dhārakajātiko
(sī. syā. pī.) a. ni. 8.78] hoti; dhātānañca [dhatānañca
(sī. syā. pī.)] dhammānaṃ atthūpaparikkhitā [atthūpavarikkhī
(sī. syā. pī.)] hoti; atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammappaṭipanno ca
hoti; kalyāṇavāco ca hoti kalyāṇavākkaraṇo, poriyā vācāya samannāgato
vissaṭṭhāya anelagaḷāya atthassa viññāpaniyā; sandassako ca hoti
samādapako [samādāpako (?)] samuttejako sampahaṃsako
sabrahmacārīnaṃ. Imehi kho, bhikkhave, chahi dhammehi samannāgato
bhikkhu alaṃ attano alaṃ paresaṃ.
‘‘Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃ attano alaṃ
paresaṃ. Katamehi pañcahi? Idha, bhikkhave, bhikkhu na heva kho
khippanisanti ca hoti kusalesu dhammesu; sutānañca dhammānaṃ
dhāraṇajātiko hoti; dhātānañca dhammānaṃ atthūpaparikkhitā hoti;
atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammappaṭipanno ca hoti; kalyāṇavāco
ca hoti…pe… atthassa viññāpaniyā; sandassako ca hoti samādapako
samuttejako sampahaṃsako sabrahmacārīnaṃ. Imehi kho, bhikkhave, pañcahi
dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃ attano alaṃ paresaṃ.
‘‘Catūhi , bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu
alaṃ attano nālaṃ paresaṃ. Katamehi catūhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu
khippanisanti ca hoti kusalesu dhammesu; sutānañca dhammānaṃ
dhāraṇajātiko hoti ; dhātānañca dhammānaṃ
atthūpaparikkhitā hoti; atthamaññāya dhammamaññāya
dhammānudhammappaṭipanno ca hoti; no ca kalyāṇavāco hoti
kalyāṇavākkaraṇo, poriyā vācāya samannāgato vissaṭṭhāya anelagaḷāya
atthassa viññāpaniyā; no ca sandassako hoti samādapako samuttejako
sampahaṃsako sabrahmacārīnaṃ. Imehi kho, bhikkhave, catūhi dhammehi
samannāgato bhikkhu alaṃ attano nālaṃ paresaṃ.
‘‘Catūhi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃ paresaṃ nālaṃ
attano. Katamehi catūhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu khippanisanti ca hoti
kusalesu dhammesu; sutānañca dhammānaṃ dhāraṇajātiko hoti; no ca
dhātānaṃ dhammānaṃ atthūpaparikkhitā hoti; na ca atthamaññāya
dhammamaññāya dhammānudhammappaṭipanno hoti; kalyāṇavāco ca hoti
kalyāṇavākkaraṇo…pe… atthassa viññāpaniyā; sandassako ca hoti…pe…
sabrahmacārīnaṃ. Imehi kho, bhikkhave, catūhi dhammehi samannāgato
bhikkhu alaṃ paresaṃ, nālaṃ attano.
‘‘Tīhi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃ attano nālaṃ
paresaṃ. Katamehi tīhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu na heva kho
khippanisanti ca hoti kusalesu dhammesu; sutānañca dhammānaṃ
dhāraṇajātiko hoti; dhātānañca dhammānaṃ
atthūpaparikkhitā hoti; atthamaññāya dhammamaññāya
dhammānudhammappaṭipanno ca hoti; no ca kalyāṇavāco hoti
kalyāṇavākkaraṇo, poriyā vācāya samannāgato vissaṭṭhāya anelagaḷāya atthassa
viññāpaniyā; no ca sandassako hoti samādapako samuttejako sampahaṃsako
sabrahmacārīnaṃ. Imehi kho, bhikkhave, tīhi dhammehi samannāgato bhikkhu
alaṃ attano, nālaṃ paresaṃ.
‘‘Tīhi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃ paresaṃ, nālaṃ
attano. Katamehi tīhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu na heva kho
khippanisanti ca hoti kusalesu dhammesu; sutānañca dhammānaṃ
dhāraṇajātiko hoti; no ca dhātānaṃ dhammānaṃ atthūpaparikkhitā hoti; no
ca atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammappaṭipanno hoti; kalyāṇavāco
ca hoti…pe… atthassa viññāpaniyā; sandassako ca hoti samādapako
samuttejako sampahaṃsako sabrahmacārīnaṃ. Imehi kho, bhikkhave, tīhi
dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃ paresaṃ, nālaṃ attano.
‘‘Dvīhi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃ attano, nālaṃ
paresaṃ. Katamehi dvīhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu na heva kho
khippanisanti ca hoti kusalesu dhammesu; no ca sutānaṃ
dhammānaṃ dhāraṇajātiko hoti; dhātānañca dhammānaṃ atthūpaparikkhitā
hoti; atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammappaṭipanno ca hoti; no ca
kalyāṇavāco hoti…pe… atthassa viññāpaniyā; no ca sandassako hoti…pe…
sabrahmacārīnaṃ . Imehi kho, bhikkhave, dvīhi
dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃ attano, nālaṃ paresaṃ.
‘‘Dvīhi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃ paresaṃ, nālaṃ
attano. Katamehi dvīhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu na heva kho
khippanisanti ca hoti kusalesu dhammesu; no ca sutānaṃ dhammānaṃ
dhāraṇajātiko hoti; no ca dhātānaṃ dhammānaṃ atthūpaparikkhitā hoti;
no ca atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammappaṭipanno hoti;
kalyāṇavāco ca hoti kalyāṇavākkaraṇo, poriyā vācāya samannāgato
vissaṭṭhāya anelagaḷāya atthassa viññāpaniyā; sandassako ca hoti
samādapako samuttejako sampahaṃsako sabrahmacārīnaṃ. Imehi kho,
bhikkhave , dvīhi dhammehi samannāgato bhikkhu
alaṃ paresaṃ, nālaṃ attano’’ti. Dutiyaṃ.
|
2. Alaṃsuttavaṇṇanā
62.
Dutiye alaṃ
attano alaṃ paresanti attano ca paresañca hitapaṭipattiyaṃ
samattho pariyatto anucchaviko. Khippanisantīti khippaṃ
upadhāreti, khandhadhātuāyatanādīsu kathiyamānesu te dhamme khippaṃ
jānātīti attho. Imasmiṃ sutte samathavipassanā kathitā.
Puggalajjhāsayena pana desanāvilāsena cetaṃ matthakato paṭṭhāya heṭṭhā
otarantaṃ kathitanti.
|
(II) (62) Vừa Đủ
1.- Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự ḿnh,
vừa đủ cho các người khác. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhanh nhẹn nắm được ư nghĩa trong các
thiện pháp; là người thọ tŕ những pháp đă được nghe; là người suy tư ư
nghĩa các pháp đă được thọ tŕ; sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp,
thực hành pháp, tùy pháp; giọng nói dễ nghe, phát âm tốt, lời nói tao
nhă, phân minh, phát ngôn không bập bẹ, giải thích nghĩa lư xác minh; có
khả năng thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các
đồng Phạm hạnh. Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ
cho tự ḿnh, vừa đủ cho các người khác.
3. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự ḿnh,
vừa đủ cho các người khác. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không nhanh nhẹn nắm được ư nghĩa
trong các thiện pháp; là người thọ tŕ những pháp đă được nghe; là người
suy tư ư nghĩa các pháp đă được thọ tŕ; sau khi hiểu nghĩa, sau khi
hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp; giọng nói dễ nghe, phát âm tốt, lời
nói tao nhă, phân minh, phát ngôn không bập bẹ, giải thích nghĩa lư xác
minh; có khả năng thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho
hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự ḿnh, vừa
đủ cho các người khác.
5. Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự ḿnh,
không vừa đủ cho các người khác. Thế nào là bốn?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhanh nhẹn nắm được ư nghĩa trong các
thiện pháp; là người thọ tŕ những pháp đă được nghe; là người suy tư ư
nghĩa các pháp đă được thọ tŕ; sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp,
thực hành pháp, tùy pháp; giọng nói không dễ nghe, phát âm không tốt,
lời nói không tao nhă, không phân minh, phát ngôn bập bẹ, giải thích
nghĩa lư không xác minh; không có khả năng thuyết giảng, khích lệ, làm
cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự ḿnh,
không vừa đủ cho các người khác.
7. Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không vừa đủ cho tự
ḿnh, vừa đủ cho các người khác. Thế nào là bốn?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhanh nhẹn nắm được ư nghĩa trong các
thiện pháp; là người thọ tŕ những pháp đă được nghe; không là người suy
tư ư nghĩa các pháp đă được thọ tŕ; không có sau khi hiểu nghĩa, sau
khi hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp; giọng nói dễ nghe, phát âm tốt,
lời nói tao nhă, phân minh, phát ngôn không bập bẹ, giải thích nghĩa lư
xác minh; có khả năng thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho
hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không vừa đủ cho tự
ḿnh, vừa đủ cho các người khác.
9. Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự ḿnh,
không vừa đủ cho các người khác. Thế nào là ba?
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không nhanh nhẹn nắm được ư nghĩa
trong các thiện pháp; là người thọ tŕ những pháp đă được nghe; là người
suy tư ư nghĩa các pháp đă được thọ tŕ; sau khi biết ư nghĩa, sau khi
biết pháp, thực hành pháp, tùy pháp; giọng nói không dễ nghe, phát âm
không tốt, lời nói không tao nhă, không phân minh, phát ngôn bập bẹ,
giải thích nghĩa lư không xác minh; không có khả năng thuyết giảng,
không khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự ḿnh,
không vừa đủ cho các người khác. Thế nào là ba?
11. Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, vừa đủ cho các người khác,
Tỷ-kheo không vừa đủ cho tự ḿnh. Thế nào là ba?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không nhanh nhẹn nắm được ư nghĩa
trong các thiện pháp; là người thọ tŕ những pháp đă được nghe; không là
người suy tư ư nghĩa các pháp đă được thọ tŕ; không là người sau khi
hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp; giọng nói dễ
nghe, giải thích nghĩa lư xác minh; có khả năng thuyết giảng, làm cho
hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỳ kheo là vừa đủ cho các người
khác, Tỷ-kheo không vừa đủ cho tự ḿnh.
13. Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự ḿnh,
không vừa đủ cho các người khác. Thế nào là hai?
14. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không nhanh nhẹn nắm được ư nghĩa
trong các thiện pháp; là người không thọ tŕ những pháp đă được nghe; là
người suy tư ư nghĩa các pháp đă được thọ tŕ; là người sau khi hiểu
nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp; giọng nói không dễ
nghe, giải thích nghĩa lư không xác minh; không có khả năng thuyết
giảng, làm cho hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho tự ḿnh,
không vừa đủ cho các người khác.
15. Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho các
người khác, không vừa đủ cho tự ḿnh. Thế nào là hai?
16. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không nhanh nhẹn nắm được ư nghĩa
trong các thiện pháp; là người không thọ tŕ những pháp đă được nghe;
không suy tư ư nghĩa các pháp đă được thọ tŕ; không có sau khi hiểu
nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp; giọng nói dễ nghe,
phát âm tốt, lời nói tao nhă, phân minh, phát ngôn không bập bẹ, giải
thích nghĩa lư xác minh; có khả năng thuyết giảng pháp thoại, khích lệ,
làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vừa đủ cho các người
khác, không vừa đủ cho tự ḿnh.
|
3. Saṃkhittasuttaṃ
63. Atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami…pe…
ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘sādhu me,
bhante, bhagavā saṃkhittena dhammaṃ desetu, yamahaṃ bhagavato dhammaṃ
sutvā eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto vihareyya’’nti.
‘‘Evamevaṃ panidhekacce moghapurisā mamaññeva ajjhesanti. Dhamme ca
bhāsite mamaññeva anubandhitabbaṃ maññantī’’ti. ‘‘Desetu me, bhante,
bhagavā saṃkhittena dhammaṃ, desetu sugato saṃkhittena dhammaṃ. Appeva
nāmāhaṃ bhagavato bhāsitassa atthaṃ ājāneyyaṃ, appeva nāmāhaṃ bhagavato
bhāsitassa dāyādo assa’’nti. ‘‘Tasmātiha te,
bhikkhu evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘ajjhattaṃ me cittaṃ ṭhitaṃ bhavissati
susaṇṭhitaṃ, na ca uppannā pāpakā akusalā dhammā cittaṃ pariyādāya
ṭhassantī’ti. Evañhi te, bhikkhu, sikkhitabbaṃ’’.
‘‘Yato kho te, bhikkhu, ajjhattaṃ cittaṃ ṭhitaṃ hoti susaṇṭhitaṃ, na ca
uppannā pāpakā akusalā dhammā cittaṃ pariyādāya tiṭṭhanti, tato te,
bhikkhu, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘mettā me
cetovimutti bhāvitā bhavissati bahulīkatā yānīkatā vatthukatā anuṭṭhitā
paricitā susamāraddhā’ti. Evañhi te, bhikkhu, sikkhitabbaṃ.
‘‘Yato kho te, bhikkhu, ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti bahulīkato, tato
tvaṃ, bhikkhu, imaṃ samādhiṃ savitakkampi savicāraṃ [savitakkasavicārampi
(ka.)] bhāveyyāsi, avitakkampi vicāramattaṃ [avitakkavicāramattampi (ka.) visuddhi. 1.271 passitabbaṃ] bhāveyyāsi,
avitakkampi avicāraṃ [avitakkaavicārampi
(ka.)] bhāveyyāsi, sappītikampi bhāveyyāsi, nippītikampi bhāveyyāsi,
sātasahagatampi bhāveyyāsi, upekkhāsahagatampi bhāveyyāsi.
‘‘Yato kho, te bhikkhu, ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti subhāvito, tato
te, bhikkhu, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘karuṇā me cetovimutti… muditā me
cetovimutti… upekkhā me cetovimutti bhāvitā bhavissati bahulīkatā
yānīkatā vatthukatā anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā’ti. Evañhi te,
bhikkhu, sikkhitabbaṃ.
‘‘Yato kho te, bhikkhu, ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti subhāvito, tato
tvaṃ, bhikkhu, imaṃ samādhiṃ savitakkasavicārampi bhāveyyāsi,
avitakkavicāramattampi bhāveyyāsi, avitakkaavicārampi bhāveyyāsi,
sappītikampi bhāveyyāsi, nippītikampi bhāveyyāsi, sātasahagatampi
bhāveyyāsi, upekkhāsahagatampi bhāveyyāsi.
‘‘Yato kho te, bhikkhu, ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti subhāvito, tato
te, bhikkhu, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘kāye kāyānupassī viharissāmi ātāpī
sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassa’nti. Evañhi te,
bhikkhu, sikkhitabbaṃ.
‘‘Yato kho te, bhikkhu, ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti bahulīkato, tato
tvaṃ, bhikkhu, imaṃ samādhiṃ savitakkasavicārampi bhāveyyāsi,
avitakkavicāramattampibhāveyyāsi,
avitakkaavicārampi bhāveyyāsi, sappītikampi bhāveyyāsi, nippītikampi
bhāveyyāsi, sātasahagatampi bhāveyyāsi ,
upekkhāsahagatampi bhāveyyāsi.
‘‘Yato kho te, bhikkhu, ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti subhāvito, tato
te, bhikkhu , evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘vedanāsu
vedanānupassī viharissāmi ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke
abhijjhādomanassa’nti; citte cittānupassī viharissāmi ātāpī sampajāno
satimā, vineyya loke abhijjhādomanassa’nti; dhammesu dhammānupassī
viharissāmi ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassa’nti.
Evañhi te, bhikkhu, sikkhitabbaṃ.
‘‘Yato kho te, bhikkhu, ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti bahulīkato, tato
tvaṃ, bhikkhu, imaṃ samādhiṃ savitakkasavicārampi bhāveyyāsi,
avitakkavicāramattampi bhāveyyāsi, avitakkaavicārampi bhāveyyāsi,
sappītikampi bhāveyyāsi, nippītikampi bhāveyyāsi, sātasahagatampi
bhāveyyāsi, upekkhāsahagatampi bhāveyyāsi.
‘‘Yato kho te, bhikkhu, ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti subhāvito, tato
tvaṃ, bhikkhu, yena yeneva gagghasi phāsuṃyeva gagghasi, yattha yattha
ṭhassasi phāsuṃyeva ṭhassasi, yattha yattha nisīdissasi phāsuṃyeva
nisīdissasi, yattha yattha seyyaṃ kappessasi phāsuṃyeva
seyyaṃ kappessasī’’ti.
Atha kho so bhikkhu bhagavatā iminā ovādena
ovadito uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.
Atha kho so bhikkhu eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto
nacirasseva – yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ
pabbajanti, tadanuttaraṃ – brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ
abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi. ‘‘Khīṇā jāti,
vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’’ti
abbhaññāsi. Aññataro ca pana so bhikkhu arahataṃ ahosīti. Tatiyaṃ.
|
3. Saṃkhittasuttavaṇṇanā
63.
Tatiye evamevāti
nikkāraṇeneva. Yathā vā ayaṃ yācati, evameva. Moghapurisāti
mūḷhapurisā tucchapurisā. Ajjhesantīti
yācanti. Anubandhitabbanti
iriyāpathānugamanena anubandhitabbaṃ maṃ na vijahitabbaṃ maññanti.
Ājānanatthaṃ apasādento evamāha. Esa kira bhikkhu ovāde dinnepi
pamādameva anuyuñjati, dhammaṃ sutvā tattheva vasati, samaṇadhammaṃ
kātuṃ na icchati. Tasmā bhagavā evaṃ apasādetvā puna yasmā so
arahattassa upanissayasampanno , tasmā taṃ
ovadanto tasmātiha
te bhikkhu evaṃ sikkhitabbantiādimāha. Tattha ajjhattaṃ
me cittaṃ ṭhitaṃ bhavissati susaṇṭhitaṃ, na ca uppannā pāpakā akusalā
dhammā cittaṃ pariyādāya ṭhassantīti iminā tāvassa ovādena
niyakajjhattavasena cittekaggatāmatto mūlasamādhi vutto.
Tato ‘‘ettakeneva santuṭṭhiṃ anāpajjitvā evaṃ so
samādhi vaḍḍhetabbo’’ti dassetuṃ yato kho te bhikkhu ajjhattaṃ cittaṃ ṭhitaṃ hoti susaṇṭhitaṃ, na ca
uppannā pāpakā akusalā dhammā cittaṃ pariyādāya tiṭṭhanti, tato te
bhikkhu evaṃ sikkhitabbaṃ‘‘mettā me cetovimutti
bhāvitā bhavissati…pe… susamāraddhā’’ti evamassa
mettāvasena bhāvanaṃ vaḍḍhetvā puna yato
kho te bhikkhu ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti bahulīkato, tato tvaṃ
bhikkhu imaṃ samādhiṃ savitakkasavicārampi bhāveyyāsītiādi
vuttaṃ. Tassattho – yadā te bhikkhu ayaṃ mūlasamādhi evaṃ mettāvasena
bhāvito hoti, tadā tvaṃ tāvatakenapi tuṭṭhiṃ anāpajjitvāva imaṃ
mūlasamādhiṃ aññesupi ārammaṇesu catukkapañcakajjhānāni pāpayamāno
‘‘savitakkasavicārampī’’tiādinā nayena bhāveyyāsīti.
Evaṃ vatvā ca pana avasesabrahmavihārapubbaṅgamampissa aññesu ārammaṇesu
catukkapañcakajjhānabhāvanaṃ kareyyāsīti dassento yato
kho te bhikkhu ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti subhāvito, tato te bhikkhu
evaṃ sikkhitabbaṃ ‘‘karuṇā me cetovimuttī’’tiādimāha. Evaṃ
mettāpubbaṅgamaṃ catukkapañcakajjhānabhāvanaṃ dassetvā puna
kāyānupassanādipubbaṅgamaṃ dassetuṃ yato
kho te bhikkhu ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti subhāvito, tato te bhikkhu
evaṃ sikkhitabbaṃ ‘‘kāye kāyānupassī’’tiādiṃ vatvā yato
kho te bhikkhu ayaṃ samādhi evaṃ bhāvito hoti subhāvito, tato tvaṃ
bhikkhu yena yeneva gagghasītiādimāha. Tattha gagghasīti
gamissasi. Phāsuṃyevāti
iminā arahattaṃ dasseti. Arahattappatto hi sabbiriyāpathesu phāsu
viharati nāma.
|
(III) (63) Pháp Lược Thuyết
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Lành thay! bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hăy thuyết pháp vắn tắt cho con,
sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một ḿnh, an tịnh, không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
- Như vậy, ở đây, một số người ngu si, thỉnh cầu Ta, sau khi pháp được
giảng, họ nghĩ Ta là người cần phải đi theo.
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hăy thuyết pháp vắn tắt cho con, Thiện Thệ hăy
thuyết pháp vắn tắt. Con có thể hiểu được ư nghĩa lời của Thế Tôn thuyết
giảng. Con có thể trở thành kẻ thừa tự lời Thế Tôn thuyết giảng.
2.- Vậy này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập như sau:
"Nội tâm ta sẽ an trú, khéo vững trú. Các pháp ác, bất thiện sanh khởi
không có xâm chiếm tâm và không có chân đứng". Như vậy, này Tỷ-kheo,
Thầy cần phải học tập.
3. Này Tỷ-kheo, khi nào nội tâm của Thầy được an trú, khéo vững trú, các
pháp ác, bất thiện sanh khởi xâm chiếm tâm và có chân đứng, khi ấy, này
Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập như sau:
"Từ tâm giải thoát sẽ được ta tu tập, làm cho sung măn, làm thành cỗ xe,
làm thành căn cứ địa, được làm cho kiên tŕ, được làm cho tích tập, được
khéo tinh cần thực hành". Như vậy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập.
4. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của Thầy được tu tập, được làm cho sung
măn như vậy, khi ấy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải tu tập định này với tầm
với tứ; cần phải tu tập không tầm, chỉ với tứ; cần phải tu tập không tầm
không tứ; cần phải tu tập có hỷ, cần phải tu tập không hỷ; cần phải tu
tập câu hữu với lạc; cần phải tu tập câu hữu với xả. Này Tỷ-kheo, khi
nào định này của Thầy được tu tập, được làm cho sung măn như vậy, khi ấy
này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập như sau:
"Bi tâm giải thoát sẽ được Thầy tu tập ... Hỷ tâm giải thoát sẽ được
Thầy tu tập ... Xả tâm giải thoát sẽ được Thầy tu tập, làm cho sung măn,
làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, được làm cho kiên tŕ, được làm
cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành". Như vậy, này Tỷ-kheo, Thầy
cần phải học tập.
5. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của Thầy được tu tập, được làm cho sung
măn như vậy, khi ấy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải tu tập định này với tầm
với tứ; cần phải tu tập không tầm, chỉ với tứ; cần phải tu tập không tầm
không tứ; cần phải tu tập có hỷ, cần phải tu tập không hỷ; cần phải tu
tập câu hữu với lạc; cần phải tu tập câu hữu với xả. Này Tỷ-kheo, khi
nào định này của Thầy được tu tập, được làm cho sung măn như vậy, khi ấy
này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập như sau:
"Ta sẽ sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời". Như vậy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập.
6. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của Thầy được tu tập, được làm cho sung
măn như vậy, khi ấy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải tu tập định này với tầm
với tứ; cần phải tu tập không tầm, với tứ; cần phải tu tập không tầm,
không tứ; cần phải tu tập có hỷ, cần phải tu tập không hỷ; cần phải tu
tập câu hữu với lạc; cần phải tu tập câu hữu với xả. Này Tỷ-kheo, khi
nào định này của Thầy được tu tập, được làm cho sung măn như vậy, khi ấy
này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập như sau:
"Ta sẽ sống quán thọ trên các cảm thọ ... quán tâm trên các tâm ... quán
pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu
ở đời". Như vậy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải học tập.
7. Này Tỷ-kheo, khi nào định này của Thầy được tu tập, được làm cho sung
măn như vậy, khi ấy, này Tỷ-kheo, Thầy cần phải tu tập định này với tầm
với tứ; cần phải tu tập không tầm, với tứ; cần phải tu tập không tầm,
không tứ; cần phải tu tập có hỷ, cần phải tu tập không hỷ; cần phải tu
tập câu hữu với lạc; cần phải tu tập câu hữu với xả. Này Tỷ-kheo, khi
nào định này của Thầy được tu tập, được làm cho sung măn như vậy, khi ấy
này Tỷ-kheo, chỗ nào, chỗ nào Thầy đi, chỗ ấy Thầy đi được an ổn; chỗ
nào, chỗ nào Thầy sẽ đứng, chỗ ấy Thầy đứng được an ổn; chỗ nào, chỗ nào
Thầy sẽ ngồi, chỗ ấy Thầy ngồi được an ổn; chỗ nào, chỗ nào Thầy sẽ nằm,
chỗ ấy Thầy sẽ nằm được an ổn.
8. Tỷ-kheo ấy, được Thế Tôn giáo giới với bài giáo giới này, từ chỗ
ngồi, đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Tỷ-kheo ấy sống một ḿnh, thanh tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh
cần, không bao lâu chứng đạt được mục đích mà các thiện nam tử xuất gia,
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Đây là vô thượng cứu cánh Phạm
hạnh, ngay trong hiện tại, tự ḿnh chứng tri với thắng trí, chứng ngộ,
chứng đạt và an trú. Vị ấy rơ biết: "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành.
Những việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa".
Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán.
|
4. Gayāsīsasuttaṃ
64. Ekaṃ samayaṃ bhagavā gayāyaṃ viharati gayāsīse. Tatra kho
bhagavā bhikkhū āmantesi…pe… ‘‘pubbāhaṃ, bhikkhave, sambodhā
anabhisambuddho bodhisattova samāno obhāsaññeva kho sañjānāmi, no ca
rūpāni passāmi’’.
‘‘Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘sace kho
ahaṃ obhāsañceva sañjāneyyaṃ rūpāni ca passeyyaṃ; evaṃ me idaṃ
ñāṇadassanaṃ parisuddhataraṃ assā’’’ti.
‘‘So kho ahaṃ, bhikkhave, aparena samayena appamatto ātāpī pahitatto
viharanto obhāsañceva sañjānāmi, rūpāni ca passāmi; no ca kho tāhi
devatāhi saddhiṃ santiṭṭhāmi sallapāmi sākacchaṃ samāpajjāmi.
‘‘Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘sace kho ahaṃ obhāsañceva
sañjāneyyaṃ, rūpāni ca passeyyaṃ, tāhi ca devatāhi saddhiṃ santiṭṭheyyaṃ
sallapeyyaṃ sākacchaṃ samāpajjeyyaṃ; evaṃ me idaṃ
ñāṇadassanaṃ parisuddhataraṃ assā’’’ti.
‘‘So kho ahaṃ, bhikkhave, aparena samayena appamatto ātāpī pahitatto
viharanto obhāsañceva sañjānāmi, rūpāni ca passāmi, tāhi ca devatāhi
saddhiṃ santiṭṭhāmi sallapāmi sākacchaṃ samāpajjāmi; no ca kho tā devatā
jānāmi – imā devatā amukamhā vā amukamhā vā devanikāyāti.
‘‘Tassa mayhaṃ, bhikkhave,
etadahosi – ‘sace kho ahaṃ obhāsañceva sañjāneyyaṃ, rūpāni ca passeyyaṃ,
tāhi ca devatāhi saddhiṃ santiṭṭheyyaṃ sallapeyyaṃ sākacchaṃ
samāpajjeyyaṃ, tā ca devatā jāneyyaṃ – imā devatā amukamhā vā amukamhā
vā devanikāyā’ti; evaṃ me idaṃ ñāṇadassanaṃ parisuddhataraṃ assā’’’ti.
‘‘So kho ahaṃ, bhikkhave, aparena samayena appamatto ātāpī pahitatto
viharanto obhāsañceva sañjānāmi, rūpāni ca passāmi, tāhi ca devatāhi
saddhiṃ santiṭṭhāmi sallapāmi sākacchaṃ samāpajjāmi, tā ca devatā jānāmi
– ‘imā devatā amukamhā vā amukamhā vā devanikāyā’ti; no ca kho tā devatā
jānāmi – ‘imā devatā imassa kammassa vipākena ito cutā tattha
upapannā’ti…pe… tā ca devatā jānāmi – ‘imā devatā imassa kammassa
vipākena ito cutā tattha upapannā’ti; no ca kho tā devatā jānāmi – ‘imā
devatā imassa kammassa vipākena evamāhārā
evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvediniyo’ti …pe… tā ca
devatā jānāmi – ‘imā devatā imassa kammassa vipākena evamāhārā
evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvediniyo’ti; no ca kho tā devatā jānāmi – ‘imā
devatā evaṃdīghāyukā evaṃciraṭṭhitikā’ti…pe… tā ca
devatā jānāmi – ‘imā devatā evaṃdīghāyukā evaṃciraṭṭhitikā’ti; no ca kho
tā devatā jānāmi yadi vā me imāhi devatāhi saddhiṃ sannivutthapubbaṃ
yadi vā na sannivutthapubbanti.
‘‘Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘sace kho ahaṃ obhāsañceva
sañjāneyyaṃ, rūpāni ca passeyyaṃ, tāhi ca devatāhi saddhiṃ santiṭṭheyyaṃ
sallapeyyaṃ sākacchaṃ samāpajjeyyaṃ , tā ca devatā
jāneyyaṃ – ‘imā devatā amukamhā vā amukamhā vā devanikāyā’ti, tā ca
devatā jāneyyaṃ – ‘imā devatā imassa kammassa vipākena ito cutā tattha
upapannā’ti, tā ca devatā jāneyyaṃ – ‘imā devatā evamāhārā
evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvediniyo’ti, tā ca devatā jāneyyaṃ – ‘imā devatā
evaṃdīghāyukā evaṃciraṭṭhitikā’ti, tā ca devatā jāneyyaṃ yadi vā me
imāhi devatāhi saddhiṃ sannivutthapubbaṃ yadi vā na sannivutthapubbanti;
evaṃ me idaṃ ñāṇadassanaṃ parisuddhataraṃ assā’’’ti.
‘‘So kho ahaṃ, bhikkhave, aparena samayena
appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañceva sañjānāmi, rūpāni ca
passāmi, tāhi ca devatāhi saddhiṃ santiṭṭhāmi sallapāmi sākacchaṃ
samāpajjāmi, tā ca devatā jānāmi – ‘imā devatā amukamhā vā amukamhā vā
devanikāyā’ti, tā ca devatā jānāmi – ‘imā devatā imassa kammassa
vipākena ito cutā tattha upapannā’ti, tā ca devatā jānāmi – ‘imā devatā
evamāhārā evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvediniyo’ti , tā
ca devatā jānāmi – ‘imā devatā evaṃdīghāyukā evaṃciraṭṭhitikā’ti, tā ca
devatā jānāmi yadi vā me devatāhi saddhiṃ sannivutthapubbaṃ yadi vā na
sannivutthapubbanti.
‘‘Yāvakīvañca me, bhikkhave, evaṃ aṭṭhaparivaṭṭaṃ adhidevañāṇadassanaṃ
na suvisuddhaṃ ahosi, neva tāvāhaṃ, bhikkhave, ‘sadevake loke samārake
sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ
sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti [abhisambuddho
(sī. syā. pī.)] paccaññāsiṃ. Yato ca kho me , bhikkhave,
evaṃ aṭṭhaparivaṭṭaṃ adhidevañāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi, athāhaṃ,
bhikkhave, ‘sadevake loke samārake sabrahmake
sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ
abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ; ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi; akuppā
me cetovimutti [vimutti
(ka. sī. ka.)];
ayamantimā jāti natthi dāni punabbhavo’’ti. Catutthaṃ.
|
4. Gayāsīsasuttavaṇṇanā
64.
Catutthe etadavocāti
attano padhānabhūmiyaṃ uppannaṃ vitakkaṃ bhikkhusaṅghassa ārocetuṃ –
‘‘pubbāhaṃ, bhikkhave’’tiādivacanaṃ avoca. Obhāsantidibbacakkhuñāṇobhāsaṃ. Ñāṇadassananti
dibbacakkhubhūtaṃ ñāṇasaṅkhātaṃ dassanaṃ. Sannivutthapubbanti
ekato vasitapubbaṃ. Imasmiṃ pana sutte dibbacakkhuñāṇaṃ,
iddhividhañāṇaṃ, cetopariyañāṇaṃ, yathākammupagañāṇaṃ, anāgataṃsañāṇaṃ,
paccuppannaṃsañāṇaṃ, atītaṃsañāṇaṃ, pubbenivāsañāṇanti imāni tāva aṭṭha
ñāṇāni pāḷiyaṃyeva āgatāni, tehi pana saddhiṃ vipassanāñāṇāni cattāri
maggañāṇāni, cattāri phalañāṇāni, cattāri
paccavekkhaṇañāṇāni, cattāri paṭisambhidāñāṇāni cha asādhāraṇañāṇānīti
etāni ñāṇāni samodhānetvā kathentena evaṃ idaṃ suttaṃ kathitaṃ nāma
hoti.
|
(IV) (64) Tagayà
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Gayasisa. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ-kheo" - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn. ".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2.- Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa thành Chánh Đẳng Giác,
Ta c̣n làm Bồ Tát, Ta tưởng tri ánh sáng, Ta không thấy sắc. Này các
Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: "Nếu Ta có thể tưởng tri ánh sáng và Ta có thể
thấy được màu sắc, như vậy tri kiến của Ta được thanh tịnh hơn lên". Rồi
này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần, Ta tưởng tri ánh sáng và thấy được các sắc, nhưng Ta không
giao thiệp với chư Thiên ấy, không nói chuyện, không thảo luận".
3. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu Ta có thể tưởng tri
ánh sáng có thể thấy được các sắc, có thể giao thiệp với chư Thiên ấy,
có thể nói chuyện, có thể thảo luận, như vậy, tri kiến này của Ta được
thanh tịnh hơn lên". Và này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, tưởng tri ánh sáng và thấy được các sắc,
và cùng chư Thiên ấy giao thiệp, nói chuyện và thảo luận. Nhưng Ta không
biết về các chư Thiên ấy: "Chư Thiên này thuộc về Thiên chúng này, thuộc
về Thiên chúng này".
4. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu Ta tưởng tri ánh sáng,
thấy được các sắc, giao thiệp với chư Thiên ấy, nói chuyện, thảo luận
với chư Thiên ấy và biết được về chư Thiên ấy : "Chư Thiên này thuộc về
Thiên chúng này, thuộc về Thiên chúng này", như vậy, tri kiến này của Ta
được thanh tịnh hơn ". Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, tưởng tri ánh sáng và thấy được
các sắc, và cùng chư Thiên ấy giao thiệp, nói chuyện, thảo luận với chư
Thiên ấy, biết được: "Chư Thiên này thuộc về Thiên chúng này, Thiên
chúng này", nhưng Ta không biết được: "Chư Thiên này do quả dị thục của
nghiệp này, chết từ đây sanh ra tại chỗ ấy"; Ta biết được chư Thiên ấy:
"Chư Thiên này do quả dị thục của nghiệp này, chết từ đây sanh ra tại
chỗ ấy"; nhưng Ta không biết được: "Chư Thiên này, do đồ ăn như thế này,
cảm thọ khổ lạc như thế này"; Ta biết được: "Chư Thiên này, do đồ ăn như
thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này"; nhưng Ta không biết được chư
Thiên ấy: "Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như
thế này", Ta biết được: "Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn
tại lâu dài như thế này"; nhưng Ta không biết chư Thiên ấy: "Trước đây
Ta có cùng ở với chư Thiên này, hay trước đây Ta không cùng ở với chư
Thiên này? "
5. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu Ta nhận thức được ánh
sáng, thấy được các sắc, cùng với chư Thiên ấy giao thiệp, nói chuyện,
thảo luận, Ta có thể biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này thuộc Thiên
chúng này, thuộc Thiên chúng này". Ta có thể biết được chư Thiên ấy:
"Chư Thiên này, do quả dị thục của nghiệp này, chết tại chỗ này, sanh
tại chỗ ấy". Ta có thể biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này, do ăn đồ
ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này"; Ta có thể biết được chư
Thiên ấy: "Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như
thế này"; Ta có thể biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này, trước đây Ta
có cùng ở với chư Thiên này, hay trước đây Ta không cùng ở với chư Thiên
này"; như vậy, tri kiến của Ta được thanh tịnh hơn trước". Này các
Tỷ-kheo, sau một thời gian sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, Ta
tưởng tri ánh sáng, thấy được các sắc, Ta giao thiệp, nói chuyện, thảo
luận với các chư Thiên ấy, Ta biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này
thuộc Thiên chúng này, thuộc Thiên chúng này". Ta biết được chư Thiên
ấy: "Chư Thiên này, do quả dị thục của nghiệp này, chết tại chỗ này,
sanh tại chỗ ấy". Ta biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này, do ăn đồ ăn
như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này"; Ta biết được chư Thiên ấy:
"Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như thế này";
Ta biết được chư Thiên ấy: "Chư Thiên này, trước đây Ta có cùng ở với
chư Thiên này, hay trước đây Ta không có ở cùng với chư Thiên này".
6. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào tri kiến gồm có tám diễn tiến và
thuộc thượng giới Thiên này không được khéo thanh tịnh nơi Ta, thời Ta
không có xác chứng trong thế giới chư Thiên với Ma giới, Phạm Thiên
giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, rằng Ta
đă chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào
tri kiến gồm có tám diễn tiến và thuộc thượng giới Thiên này được khéo
thanh tịnh nơi ta, thời Ta có xác chứng trong thế giới chư Thiên với Ma
giới, Phạm Thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và
loài Người, rằng Ta đă chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Tri kiến
khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta. Đây là đời sống
cuối cùng, không c̣n tái sanh nữa".
|
10. Bhūmicālasuttaṃ
70. Ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane
kūṭāgārasālāyaṃ. Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā
pattacīvaramādāya vesāliṃ piṇḍāya pāvisi. Vesāliyaṃ piṇḍāya caritvā
pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi –
‘‘gaṇhāhi, ānanda, nisīdanaṃ. Yena cāpālaṃ cetiyaṃ [pāvālacetiyaṃ
(syā.), cāpālacetiyaṃ (pī. ka.)] tenupasaṅkamissāma
divāvihārāyā’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā ānando bhagavato
paṭissutvā nisīdanaṃ ādāya bhagavantaṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandhi.
Atha kho bhagavā yena cāpālaṃ cetiyaṃ
tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho bhagavā
āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi – ‘‘ramaṇīyā , ānanda,
vesālī, ramaṇīyaṃ udenaṃ cetiyaṃ, ramaṇīyaṃ gotamakaṃ cetiyaṃ, ramaṇīyaṃ
sattambaṃ cetiyaṃ, ramaṇīyaṃ bahuputtakaṃ cetiyaṃ; ramaṇīyaṃ sārandadaṃ
cetiyaṃ, ramaṇīyaṃ cāpālaṃ cetiyaṃ. Yassa kassaci ,
ānanda, cattāro iddhipādā bhāvitā bahulīkatā yānīkatā vatthukatā
anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā, ākaṅkhamāno so, ānanda, kappaṃ vā
tiṭṭheyya kappāvasesaṃ vā. Tathāgatassa kho, ānanda, cattāro iddhipādā
bhāvitā bahulīkatā yānīkatā vatthukatā anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā.
Ākaṅkhamāno, ānanda, tathāgato kappaṃ vā tiṭṭheyya kappāvasesaṃ vā’’ti.
Evampi kho āyasmā ānando bhagavatā oḷārike nimitte kayiramāne oḷārike obhāse
kayiramāne nāsakkhi paṭivijjhituṃ; na bhagavantaṃ yāci – ‘‘tiṭṭhatu,
bhante, bhagavā kappaṃ, tiṭṭhatu sugato kappaṃ bahujanahitāya
bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussāna’’nti,
yathā taṃ mārena pariyuṭṭhitacitto.
Dutiyampi kho bhagavā…pe… tatiyampi kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ
āmantesi – ‘‘ramaṇīyā, ānanda, vesālī, ramaṇīyaṃ udenaṃ cetiyaṃ,
ramaṇīyaṃ gotamakaṃ cetiyaṃ, ramaṇīyaṃ sattambaṃ cetiyaṃ, ramaṇīyaṃ
bahuputtakaṃ cetiyaṃ, ramaṇīyaṃ sārandadaṃ cetiyaṃ, ramaṇīyaṃ cāpālaṃ
cetiyaṃ. Yassa kassaci, ānanda, cattāro iddhipādā bhāvitā bahulīkatā
yānīkatā vatthukatā anuṭṭhitā paricitā susamāraddhā, ākaṅkhamāno so,
ānanda, kappaṃ vā tiṭṭheyya kappāvasesaṃ vā. Tathāgatassa kho, ānanda,
cattāro iddhipādā bhāvitā…pe… ākaṅkhamāno, ānanda, tathāgato kappaṃ vā
tiṭṭheyya kappāvasesaṃ vā’’ti. Evampi kho āyasmā ānando bhagavatā oḷārike
nimitte kayiramāne oḷārike obhāse kayiramāne nāsakkhi paṭivijjhituṃ; na
bhagavantaṃ yāci – ‘‘tiṭṭhatu, bhante, bhagavā kappaṃ, tiṭṭhatu sugato
kappaṃ bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya
sukhāya devamanussāna’’nti, yathā taṃ mārena pariyuṭṭhitacitto.
Atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi –
‘‘gaccha tvaṃ [gaccha kho tvaṃ (saṃ. ni. 5.822) udā. 51 passitabbaṃ],
ānanda, yassa dāni kālaṃ maññasī’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā
ānando bhagavato paṭissutvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā
padakkhiṇaṃ katvā bhagavato avidūre aññatarasmiṃ rukkhamūle nisīdi. Atha
kho māro pāpimā acirapakkante āyasmante ānande bhagavantaṃ etadavoca
–
‘‘Parinibbātu dāni, bhante, bhagavā, parinibbātu sugato. Parinibbānakālo
dāni, bhante , bhagavato. Bhāsitā kho panesā,
bhante, bhagavatā vācā – ‘na tāvāhaṃ, pāpima, parinibbāyissāmi yāva me
bhikkhū na sāvakā bhavissanti viyattā vinītā visāradā pattayogakkhemā [idaṃ
padaṃ dī. ni. 2.168 ca saṃ. ni. 5.822 ca na dissati] bahussutā
dhammadharā dhammānudhammappaṭipannā sāmīcippaṭipannā anudhammacārino,
sakaṃ ācariyakaṃ uggahetvā ācikkhissanti desessanti paññapessanti
paṭṭhapessanti vivarissanti vibhajissanti uttānīkarissanti uppannaṃ
parappavādaṃ sahadhammena suniggahitaṃ niggahetvā sappāṭihāriyaṃ dhammaṃ
desessantī’ti. Etarahi, bhante, bhikkhū bhagavato sāvakā viyattā vinītā
visāradā pattayogakkhemā bahussutā dhammadharā dhammānudhammappaṭipannā
sāmīcippaṭipannā anudhammacārino, sakaṃ ācariyakaṃ uggahetvā ācikkhanti
desenti paññapenti paṭṭhapenti vivaranti vibhajanti uttānīkaronti
uppannaṃ parappavādaṃ sahadhammena suniggahitaṃ niggahetvā
sappāṭihāriyaṃ dhammaṃ desenti.
‘‘Parinibbātu dāni, bhante, bhagavā, parinibbātu sugato. Parinibbānakālo
dāni, bhante, bhagavato. Bhāsitā kho panesā, bhante, bhagavatā vācā –
‘na tāvāhaṃ, pāpima, parinibbāyissāmi yāva me bhikkhuniyo na sāvikā
bhavissanti…pe… yāva me upāsakā na sāvakā bhavissanti…pe…
yāva me upāsikā na sāvikā bhavissanti viyattā vinītā visāradā
pattayogakkhemā bahussutā dhammadharā dhammānudhammappaṭipannā
sāmīcippaṭipannā anudhammacāriniyo, sakaṃ ācariyakaṃ uggahetvā ācikkhissanti
desessanti paññapessanti paṭṭhapessanti vivarissanti vibhajissanti
uttānīkarissanti, uppannaṃ parappavādaṃ sahadhammena suniggahitaṃ
niggahetvā sappāṭihāriyaṃ dhammaṃ desessantī’ti. Etarahi, bhante,
upāsikā bhagavato sāvikā viyattā vinītā visāradā pattayogakkhemā
bahussutā dhammadharā dhammānudhammappaṭipannā
sāmīcippaṭipannā anudhammacāriniyo, sakaṃ ācariyakaṃ uggahetvā
ācikkhanti desenti paññapenti paṭṭhapenti vivaranti vibhajanti
uttānīkaronti, uppannaṃ parappavādaṃ sahadhammena suniggahitaṃ
niggahetvā sappāṭihāriyaṃ dhammaṃ desenti.
‘‘Parinibbātu dāni, bhante, bhagavā, parinibbātu sugato. Parinibbānakālo
dāni, bhante, bhagavato. Bhāsitā kho panesā, bhante, bhagavatā vācā –
‘na tāvāhaṃ, pāpima, parinibbāyissāmi yāva me idaṃ brahmacariyaṃ na
iddhañceva bhavissati phītañca vitthārikaṃ bāhujaññaṃ puthubhūtaṃ,
yāva devamanussehi suppakāsita’nti. Etarahi, bhante, bhagavato
brahmacariyaṃ iddhañceva phītañca vitthārikaṃ bāhujaññaṃ puthubhūtaṃ,
yāva devamanussehi suppakāsitaṃ.
‘‘Parinibbātu dāni, bhante, bhagavā, parinibbātu sugato. Parinibbānakālo
dāni, bhante, bhagavato’’ti. ‘‘Appossukko tvaṃ, pāpima, hohi. Naciraṃ
tathāgatassa parinibbānaṃ bhavissati. Ito tiṇṇaṃ māsānaṃ accayena
tathāgato parinibbāyissatī’’ti.
Atha kho bhagavā cāpāle cetiye sato sampajāno āyusaṅkhāraṃ ossaji.
Ossaṭṭhe ca bhagavatā āyusaṅkhāre mahābhūmicālo
ahosi bhiṃsanako salomahaṃso, devadundubhiyo ca phaliṃsu. Atha kho
bhagavā etamatthaṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ udānaṃ udānesi –
‘‘Tulamatulañca sambhavaṃ, bhavasaṅkhāramavassaji
muni;
Ajjhattarato samāhito, abhindi kavacamivattasambhava’’nti.
Atha kho āyasmato ānandassa etadahosi – ‘‘mahā vatāyaṃ bhūmicālo; sumahā
vatāyaṃ bhūmicālo bhiṃsanako salomahaṃso, devadundubhiyo ca phaliṃsu. Ko
nu kho hetu, ko paccayo mahato bhūmicālassa pātubhāvāyā’’ti?
Atha kho āyasmā ānando yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā
ānando bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘mahā vatāyaṃ, bhante, bhūmicālo ;
sumahā vatāyaṃ, bhante, bhūmicālo bhiṃsanako salomahaṃso, devadundubhiyo
ca phaliṃsu. Ko nu kho, bhante, hetu, ko paccayo mahato bhūmicālassa
pātubhāvāyā’’ti?
‘‘Aṭṭhime, ānanda, hetū, aṭṭha paccayā mahato bhūmicālassa pātubhāvāya.
Katame aṭṭha? Ayaṃ, ānanda, mahāpathavī udake patiṭṭhitā; udakaṃ vāte
patiṭṭhitaṃ; vāto ākāsaṭṭho hoti. So, ānanda, samayo yaṃ mahāvātā
vāyanti; mahāvātā vāyantā udakaṃ kampenti; udakaṃ kampitaṃ
pathaviṃ kampeti. Ayaṃ, ānanda, paṭhamo hetu, paṭhamo paccayo mahato
bhūmicālassa pātubhāvāya.
‘‘Puna caparaṃ, ānanda, samaṇo vā brāhmaṇo vā
iddhimā cetovasippatto devatā vā mahiddhikā mahānubhāvā. Tassa parittā
pathavīsaññā bhāvitā hoti, appamāṇā āposaññā. So imaṃ pathaviṃ kampeti
saṅkampeti sampakampeti sampavedheti. Ayaṃ, ānanda, dutiyo hetu, dutiyo
paccayo mahato bhūmicālassa pātubhāvāya.
‘‘Puna caparaṃ, ānanda, yadā bodhisatto tusitā kāyā cavitvā sato
sampajāno mātukucchiṃ okkamati, tadāyaṃ pathavī kampati
saṅkampati sampakampati sampavedhati. Ayaṃ, ānanda, tatiyo hetu; tatiyo
paccayo mahato bhūmicālassa pātubhāvāya.
‘‘Puna caparaṃ, ānanda, yadā bodhisatto sato sampajāno mātukucchismā
nikkhamati, tadāyaṃ pathavī kampati saṅkampati sampakampati
sampavedhati. Ayaṃ, ānanda, catuttho hetu, catuttho paccayo mahato
bhūmicālassa pātubhāvāya.
‘‘Puna caparaṃ, ānanda, yadā tathāgato anuttaraṃ sammāsambodhiṃ
abhisambujjhati, tadāyaṃ pathavī kampati saṅkampati sampakampati
sampavedhati. Ayaṃ, ānanda, pañcamo hetu, pañcamo paccayo mahato
bhūmicālassa pātubhāvāya.
‘‘Puna caparaṃ, ānanda, yadā tathāgato anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavatteti,
tadāyaṃ pathavī kampati saṅkampati sampakampati sampavedhati. Ayaṃ,
ānanda, chaṭṭho hetu, chaṭṭho paccayo mahato bhūmicālassa pātubhāvāya.
‘‘Puna caparaṃ, ānanda, yadā tathāgato sato
sampajāno āyusaṅkhāraṃ ossajjati, tadāyaṃ pathavī kampati saṅkampati
sampakampati sampavedhati. Ayaṃ, ānanda, sattamo hetu, sattamo paccayo
mahato bhūmicālassa pātubhāvāya.
‘‘Puna caparaṃ, ānanda, yadā tathāgato
anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyati,
tadāyaṃ pathavī kampati saṅkampati sampakampati sampavedhati. Ayaṃ,
ānanda, aṭṭhamo hetu, aṭṭhamo paccayo mahato bhūmicālassa pātubhāvāya.
Ime kho, ānanda, aṭṭha hetū, aṭṭha paccayā mahato bhūmicālassa
pātubhāvāyā’’ti. Dasamaṃ.
|
10. Bhūmicālasuttavaṇṇanā
70.
Dasame nisīdananti
idha cammakhaṇḍaṃ adhippetaṃ. Udenaṃ cetiyanti udenayakkhassa vasanaṭṭhāne katavihāro
vuccati. Gotamakādīsupi
eseva nayo. Bhāvitāti
vaḍḍhitā. Bahulīkatāti punappunaṃ
katā. Yānīkatāti yuttayānaṃ
viya katā. Vatthukatāti
patiṭṭhānaṭṭhena vatthu viya katā. Anuṭṭhitāti adhiṭṭhitā. Paricitāti
samantato citā suvaḍḍhitā. Susamāraddhāti
suṭṭhu samāraddhā.
Iti aniyamena kathetvā puna niyametvā dassento tathāgatassa
khotiādimāha. Ettha kappanti
āyukappaṃ. Tasmiṃ tasmiṃ kāle yaṃ manussānaṃ āyuppamāṇaṃ, taṃ paripuṇṇaṃ
karonto tiṭṭheyya. Kappāvasesaṃ vāti ‘‘appaṃ vā bhiyyo’’ti vuttavassasatato
atirekaṃ vā. Mahāsīvatthero panāha – ‘‘buddhānaṃ aṭṭhāne gajjitaṃ nāma
natthi, punappunaṃ samāpajjitvā maraṇantikavedanaṃ vikkhambhento
bhaddakappameva tiṭṭheyya. Kasmā pana na ṭhitoti? Upādinnakasarīraṃ nāma
khaṇḍiccādīhi abhibhuyyati, buddhā ca khaṇḍiccādibhāvaṃ appatvā pañcame
āyukoṭṭhāse bahujanassa piyamanāpakāleyeva parinibbāyanti.
Buddhānubuddhesu ca mahāsāvakesu parinibbutesu ekakeneva khāṇukena viya
ṭhātabbaṃ hoti daharasāmaṇeraparivārena vā, tato ‘aho buddhānaṃ
parisā’ti hīḷetabbataṃ āpajjeyya. Tasmā na ṭhito’’ti. Evaṃ vuttepi yo
pana vuccati ‘‘āyukappo’’ti, idameva aṭṭhakathāya niyāmitaṃ.
Yathā taṃ mārena pariyuṭṭhitacittoti
ettha tanti
nipātamattaṃ, yathā mārena pariyuṭṭhitacitto ajjhotthaṭacitto aññopi
koci puthujjano paṭivijjhituṃ na sakkuṇeyya, evameva nāsakkhi
paṭivijjhitunti attho. Māro hi yassa sabbena
sabbaṃ dvādasa vipallāsā appahīnā, tassa cittaṃ pariyuṭṭhāti. Therassa
ca cattāro vipallāsā appahīnā, tenassa māro cittaṃ pariyuṭṭhāsi. So pana
cittapariyuṭṭhānaṃ karonto kiṃ karotīti? Bheravaṃ rūpārammaṇaṃ vā
dasseti, saddārammaṇaṃ vā sāveti. Tato sattā taṃ disvā vā sutvā vā satiṃ
vissajjetvā vivaṭamukhā honti, tesaṃ mukhena hatthaṃ pavesetvā hadayaṃ
maddati, tato visaññāva hutvā tiṭṭhanti. Therassa panesa mukhe hatthaṃ
pavesetuṃ kiṃ sakkhissati, bheravārammaṇaṃ pana dassesi. Taṃ disvā thero
nimittobhāsaṃ nappaṭivijjhi. Bhagavā jānantoyeva kimatthaṃ yāva tatiyaṃ
āmantesīti? Parato ‘‘tiṭṭhatu, bhante bhagavā’’ti yācite ‘‘tuyhevetaṃ
dukkaṭaṃ, tuyhevetaṃ aparaddha’’nti dosāropanena so katanukaraṇatthaṃ.
Māro pāpimāti
ettha satte anatthe niyojento māretīti māro. Pāpimāti tasseva vevacanaṃ .
So hi pāpadhammasamannāgatattā ‘‘pāpimā’’ti vuccati. Kaṇho, antako,
namuci, pamattabandhūtipi tasseva nāmāni. Bhāsitā
kho panesāti ayañhi bhagavato sambodhipattiyā aṭṭhame
sattāhe bodhimaṇḍeyeva āgantvā ‘‘bhagavā yadatthaṃ tumhehi pāramiyo
pūritā, so vo attho anuppatto, paṭividdhaṃ sabbaññutaññāṇaṃ, kiṃ te
lokavicāraṇenā’’ti vatvā yathā ajja, evameva ‘‘parinibbātu dāni, bhante
bhagavā’’ti yāci. Bhagavā cassa ‘‘na tāvāha’’ntiādīni vatvā paṭikkhipi.
Taṃ sandhāya – ‘‘bhāsitā kho panesā, bhante’’tiādimāha.
Tattha viyattāti
maggavasena byattā, tatheva vinītā, tathā visāradā.
Bahussutāti tepiṭakavasena bahu sutaṃ etesanti bahussutā.
Tameva dhammaṃ dhārentīti dhammadharā.
Atha vā pariyattibahussutā ceva paṭivedhabahussutā ca.
Pariyattipaṭivedhadhammānaṃyeva dhāraṇato dhammadharāti evamettha attho
daṭṭhabbo. Dhammānudhammappaṭipannāti
ariyadhammassa anudhammabhūtaṃ vipassanādhammaṃ paṭipannā. Sāmīcippaṭipannāti
anucchavikapaṭipadaṃ paṭipannā. Anudhammacārinoti anudhammaṃ caraṇasīlā. Sakaṃ
ācariyakanti attano ācariyavādaṃ. Ācikkhissantītiādīni sabbāni aññamaññavevacanāni. Sahadhammenāti
sahetukena sakāraṇena vacanena. Sappāṭihāriyanti yāva niyyānikaṃ katvā dhammaṃ desessanti.
Brahmacariyanti sikkhāttayasaṅgahitaṃ
sakalaṃ sāsanabrahmacariyaṃ. Iddhanti
samiddhaṃ jhānassādavasena. Phītanti vuddhipattaṃ sabbapāliphullaṃ viya
abhiññāsampattivasena. Vitthārikanti vitthataṃ tasmiṃ tasmiṃ disābhāge
patiṭṭhitavasena. Bāhujaññanti bahūhi ñātaṃ
paṭividdhaṃ mahājanābhisamayavasena. Puthubhūtanti
sabbākārena puthulabhāvappattaṃ. Kathaṃ? Yāva devamanussehi suppakāsitanti, yattakā viññujātikā
devā ceva manussā ca atthi, sabbehi suṭṭhu pakāsitanti attho. Appossukkoti
nirālayo. Tvañhi pāpima aṭṭhamasattāhato paṭṭhāya ‘‘parinibbātu dāni,
bhante bhagavā, parinibbātu sugato’’ti viravanto āhiṇḍittha. Ajja dāni
paṭṭhāya vigatussāho hohi, mā mayhaṃ parinibbānatthaṃ vāyāmaṃ karohīti
vadati.
Sato sampajāno āyusaṅkhāraṃ ossajjīti
satiṃ sūpaṭṭhitaṃ katvā ñāṇena paricchinditvā āyusaṅkhāraṃ vissajji
pajahi. Tattha na bhagavā hatthena leḍḍuṃ viya āyusaṅkhāraṃ ossaji,
temāsamattameva pana phalasamāpattiṃ samāpajjitvā
tato paraṃ na samāpajjissāmīti cittaṃ uppādesi. Taṃ sandhāya vuttaṃ
‘‘ossajī’’ti. Ussajītipi pāṭho. Mahābhūmicāloti mahanto pathavīkampo. Tadā kira
dasasahassī lokadhātu kampittha. Bhiṃsanakoti bhayajanako. Devadundubhiyo
ca phaliṃsūti devabheriyo phaliṃsu, devo sukkhagajjitaṃ
gajji, akālavijjulatā nicchariṃsu, khaṇikavassaṃ vassīti vuttaṃ hoti.
Udānaṃ udānesīti
kasmā udānesi? Koci nāma vadeyya ‘‘bhagavā pacchato pacchato
anubandhitvā ‘parinibbātu, bhante’ti upadduto bhayena āyusaṅkhāraṃ
vissajjesī’’ti, tassokāso mā hotu, bhītassa hi
udānaṃ nāma natthīti pītivegavissaṭṭhaṃ udānaṃ udānesi.
Tattha sabbesaṃ soṇasiṅgālādīnampi paccakkhabhāvato tulitaṃ
paricchinnanti tulaṃ.
Kiṃ taṃ? Kāmāvacarakammaṃ. Na tulaṃ, na vā tulaṃ sadisamassa aññaṃ
lokiyaṃ kammaṃ atthīti atulaṃ.
Kiṃ taṃ? Mahaggatakammaṃ. Atha vā kāmāvacaraṃ rūpāvacaraṃ tulaṃ,
arūpāvacaraṃ atulaṃ. Appavipākaṃ vā tulaṃ, bahuvipākaṃ atulaṃ. Sambhavanti
sambhavahetubhūtaṃ, rāsikārakaṃ piṇḍakārakanti attho. Bhavasaṅkhāranti
punabbhavasaṅkhāraṇakaṃ. Avassajīti vissajjesi. Munīti
buddhamuni. Ajjhattaratoti
niyakajjhattarato. Samāhitoti upacārappanāsamādhivasena samāhito. Abhindi
kavacamivāti kavacaṃ viya abhindi. Attasambhavanti attani sañjātaṃ kilesaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti
– savipākaṭṭhena sambhavaṃ, bhavābhisaṅkharaṇaṭṭhena bhavasaṅkhāranti ca
laddhanāmaṃ tulātulasaṅkhātaṃ lokiyakammañca ossaji, saṅgāmasīse mahāyodho
kavacaṃ viya attasambhavaṃ kilesañca ajjhattarato hutvā samāhito hutvā
abhindīti.
Atha vā tulanti
tulento tīrento. Atulañca
sambhavanti nibbānañceva sambhavañca. Bhavasaṅkhāranti
bhavagāmikammaṃ. Avassaji
munīti ‘‘pañcakkhandhā aniccā, pañcannaṃ khandhānaṃ
nirodho nibbānaṃ nicca’’ntiādinā (paṭi. ma. 3.37-38) nayena tulayanto
buddhamuni bhave ādīnavaṃ, nibbāne ca ānisaṃsaṃ disvā taṃ khandhānaṃ
mūlabhūtaṃ bhavasaṅkhāraṃ kammaṃ ‘‘kammakkhayāya saṃvattatī’’ti (ma. ni.
2.81; a. ni. 4.232-233) evaṃ vuttena kammakkhayakarena ariyamaggena
avassaji. Kathaṃ? Ajjhattarato
samāhito, abhindi kavacamivattasambhavaṃ. So hi
vipassanāvasena ajjhattarato, samathavasena samāhitoti evaṃ pubbabhāgato
paṭṭhāya samathavipassanābalena kavacamiva
attabhāvaṃ pariyonandhitvā ṭhitaṃ, attani sambhavattā
‘‘attasambhava’’nti laddhanāmaṃ sabbakilesajālaṃ abhindi. Kilesābhāvena
ca kataṃ kammaṃ appaṭisandhikattā avassaṭṭhaṃ nāma hotīti evaṃ
kilesappahānena kammaṃ pajahi. Pahīnakilesassa ca bhayaṃ nāma natthi,
tasmā abhītova āyusaṅkhāraṃ ossajji, abhītabhāvañāpanatthañca udānaṃ
udānesīti veditabbo.
Yaṃ mahāvātāti
yena samayena yasmiṃ vā samaye mahāvātā. Vāyantīti
upakkhepakavātā nāma uṭṭhahanti, te vāyantā
saṭṭhisahassādhikanavayojanasatasahassabahalaṃ udakasandhārakavātaṃ
upacchindanti, tato ākāse udakaṃ bhassati, tasmiṃ bhassante pathavī
bhassati, puna vāto attano balena antodhammakaraṇe viya udakaṃ
ābandhitvā gaṇhāti, tato udakaṃ uggacchati, tasmiṃ uggacchante pathavī
uggacchati. Evaṃ udakaṃ kampitaṃpathaviṃ kampeti.
Etañca kampanaṃ yāvajjakālāpi hotiyeva, bahubhāvena pana
ogacchanuggacchanaṃ na paññāyati.
Mahiddhikā mahānubhāvāti
ijjhanassa mahantatāya mahiddhikā, anubhavitabbassa mahantatāya
mahānubhāvā. Parittāti
dubbalā. Appamāṇāti
balavā. So
imaṃ pathaviṃ kampetīti so iddhiṃ nibbattetvā saṃvejento
mahāmoggallāno viya, vīmaṃsanto vā mahānāgattherassa bhāgineyyo
saṅgharakkhitasāmaṇero viya pathaviṃ kampeti. Saṅkampetīti
samantato kampeti. Sampakampetīti
tasseva vevacanaṃ. Iti imesu aṭṭhasu pathavikampesu paṭhamo dhātukopena,
dutiyo iddhānubhāvena, tatiyacatutthā puññatejena, pañcamo ñāṇatejena,
chaṭṭho sādhukāradānavasena, sattamo kāruññasabhāvena, aṭṭhamo
ārodanena. Mātukucchiṃ okkamante ca tato nikkhamante ca mahāsatte tassa
puññatejena pathavī akampittha, abhisambodhiyaṃ ñāṇatejābhihatā hutvā
akampittha, dhammacakkappavattane sādhukārabhāvasaṇṭhitā sādhukāraṃ
dadamānā akampittha, āyusaṅkhāraossajjane kāruññasabhāvasaṇṭhitā
cittasaṅkhobhaṃ asahamānā akampittha, parinibbāne ārodanavegatunnā hutvā
akampittha. Ayaṃ panattho pathavidevatāya vasena veditabbo.
Mahābhūtapathaviyā panetaṃ natthi acetanattā. Sesaṃ sabbattha
uttānatthamevāti.
|
(X) (70) Động Đất
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Đại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, đem theo y và bát, vào Vesàli để khất
thực. Sau khi đi khất thực, ăn xong và trên đường khất thực trở về, Ngài
nói với Tôn giả Ananda:
2. - Này Ananda, hăy lấy tọa cụ, chúng ta sẽ đi đến Càpàla để nghỉ trưa.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn.
3. Thế Tôn đi đến đền Càpàla, sau khi đến, Ngài ngồi trên chỗ đă soạn
sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
4. - Này Ananda, khả ái thay Vesàli! Khả ái thay đền Udena! Khả ái thay
đền Gotamaka! Khả ái thay đền Bahuputtaka! Khả ái thay đền Sattamba! Khả
ái thay đền Sàrandada! Khả ái thay đền Càpàla! Này Ananda, những ai đă
tu tập bốn thần túc, làm cho sung măn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ
địa, kiên tŕ, tích tập, khéo thực hành, nếu muốn, này Ananda, người ấy
có thể sống một kiếp hay một phần kiếp c̣n lại. Này Ananda, nay Như Lai
đă tu tập bốn thần túc, làm cho sung măn, làm thành cỗ xe, làm thành căn
cứ địa, kiên tŕ, tích tập, khéo thực hành. Này Ananda, nếu muốn Như Lai
có thể sống một kiếp hay một phần kiếp c̣n lại.
Như vậy, Tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự gợi ư quá rơ ràng của Thế
Tôn, sự hiện tướng quá rơ ràng của Thế Tôn, Tôn giả không thỉnh cầu Thế
Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hăy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hăy ở
lại cho đến trọn kiếp v́ lợi ích cho chúng sanh, v́ hạnh phúc cho chúng
sanh, v́ ḷng thương tưởng cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc
cho chư Thiên và loài người ", v́ tâm của Tôn giả bị Ma vương ám ảnh.
5. Lần thứ hai Thế Tôn ... lần thứ ba, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
6. - Này Ananda, khả ái thay Vesàli! Khả ái thay đền Udena! Khả ái thay
đền Gotamaka! Khả ái thay đền Bahuputtaka! Khả ái thay đền Sattamba! Khả
ái thay đền Sàrandada! Khả ái thay đền Càpàla! Này Ananda, những ai đă
tu tập bốn thần túc, làm cho sung măn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ
địa, kiên tŕ, tích tập, khéo thực hành, nếu muốn, này Ananda, người ấy
có thể sống đến một kiếp hay một phần kiếp c̣n lại. Này Ananda, Như Lai
đă tu tập bốn thần túc, làm cho sung măn, làm thành cỗ xe, làm thành căn
cứ địa, kiên tŕ, tích tập, khéo thực hành. Này Ananda, nếu muốn Như Lai
có thể sống một kiếp hay một phần kiếp c̣n lại.
Như vậy, Tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự gợi ư quá rơ ràng của Thế
Tôn, sự hiện tướng quá rơ ràng của Thế Tôn, Tôn giả không thỉnh cầu Thế
Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hăy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hăy ở
lại cho đến trọn kiếp v́ lợi ích cho chúng sanh, v́ hạnh phúc cho chúng
sanh, v́ ḷng thương tưởng cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc
cho chư Thiên và loài người ", v́ tâm của Tôn giả bị Ác Ma ám ảnh.
7. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hăy đi và làm những ǵ Thầy nghĩ là phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài,
thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi ra đi, ngồi xuống một gốc cây, không
xa Thế Tôn.
8. Rồi Tôn giả Ananda ra đi chưa bao lâu, Ác ma nói với Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hăy diệt độ. Thiện Thệ hăy diệt độ. Bạch Thế
Tôn, nay đă đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn
đă nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ cho đến khi nào những Tỷ-kheo
của Ta chưa trở thành những đệ tử tinh thông, có huấn luyện, có tin
tưởng, đạt được an ổn khỏi khổ ách, nghe nhiều, thọ tŕ pháp, thực hành
pháp và tùy pháp, sở hành chơn chánh, hành tŕ theo pháp; sau khi học
hỏi như bậc Sư trưởng của ḿnh, chưa tuyên bố, thuyết giảng tŕnh bày
xác định, khai minh, phân tích, và giải thích rơ ràng chánh pháp; khi có
tà đạo khởi lên, chưa có thể bác bỏ, hàng phục với chánh pháp, chưa có
thể thuyết pháp thần diệu".
Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo của Thế Tôn đă trở thành những đệ tử
tinh thông, có huấn luyện, có tin tưởng, đạt được an ổn khỏi khổ ách,
nghe nhiều, thọ tŕ pháp, thực hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn
chánh, hành tŕ theo pháp; sau khi học hỏi như bậc Sư trưởng của ḿnh,
chưa tuyên bố, thuyết giảng tŕnh bày xác định, khai minh, phân tích, và
giải thích rơ ràng chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, đă có thể bác bỏ,
hàng phục với chánh pháp, có thể thuyết pháp thần diệu".
Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hăy diệt độ. Thiện Thệ hăy diệt độ. Bạch Thế
Tôn, nay đă đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn
đă nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ cho đến khi nào những Tỷ-kheo ni
của Ta chưa trở thành những đệ tử tinh thông, có huấn luyện, có tin
tưởng ... khi nào những nam cư sĩ của Ta chưa trở thành, ... khi nào
những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử tinh thông, có huấn
luyện, có tin tưởng, đạt được an ổn khỏi khổ ách, nghe nhiều, thọ tŕ
pháp, thực hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn chánh, hành tŕ theo
pháp; sau khi học hỏi như bậc Sư trưởng của ḿnh, chưa tuyên bố, thuyết
giảng tŕnh bày xác định, khai minh, phân tích, và giải thích rơ ràng
chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, chưa có thể bác bỏ, hàng phục
với chánh pháp, chưa có thể thuyết pháp thần diệu".
Bạch Thế Tôn, nay những nữ cư sĩ của Thế Tôn đă trở thành đệ tử tinh
thông, có huấn luyện, có tin tưởng, đạt được an ổn khỏi khổ ách, nghe
nhiều, thọ tŕ pháp, thực hành pháp và tùy pháp, sở hành chơn chánh,
hành tŕ theo pháp; sau khi học hỏi giáo lư đă có thể tuyên bố, thuyết
giảng tŕnh bày xác định, khai minh, phân tích, và giải thích rơ ràng
Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, đă có thể bác bỏ, hàng phục với
chánh pháp, có thể thuyết pháp thần diệu".
Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hăy diệt độ. Thiện Thệ hăy diệt độ. Bạch Thế
Tôn, nay đă đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn
đă nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào Phạm hạnh Ta giảng dạy
chưa thịnh đạt, phát triển, quảng bá, biến măn, phổ biến, khéo thuyết
giảng cho chư Thiên và loài Người ".
Nay bạch Thế Tôn, Phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy được thịnh đạt, phát
triển, quảng bá, biến măn, phổ biến, khéo thuyết giảng cho chư Thiên và
loài Người. Nay Thế Tôn hăy diệt độ! Thiện Thệ hăy diệt độ. Bạch Thế
Tôn, nay đă đến thời Thế Tôn diệt độ!
- Này Ác ma hăy yên tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng
bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ!
9. Và tại đền Càpàla, Thế Tôn chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ hành
(không duy tŕ mạng sống lâu hơn nữa). Khi Thế Tôn từ bỏ thọ hành, thời
đại địa chấn động ghê rợn, tóc lông dựng ngược, sấm trời vang dậy. Lúc
bấy giờ, Thế Tôn hiểu ư nghĩa sự kiện này, liền thốt ra lời cảm hứng như
sau:
Mạng sống có hạn hay vô hạn
Tu sĩ từ bỏ không kéo dài
Nội tâm an lạc, trú Thiền định
Như thoát áo giáp tự ngă mang.
10. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda suy nghĩ: "Thật là lớn, đất chấn động
này. Thật là to lớn, đất chấn động này, đại địa chấn động ghê rợn, tóc
lông dựng ngược và sấm trời vang dậy. Do nhân ǵ, do duyên ǵ, đại địa
chấn động hiển lộ như vậy? "
Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:
- Thật là lớn, đất chấn động này. Thật là to lớn, đất chấn động này, đại
địa chấn động ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy. Bạch
Thế Tôn, do nhân ǵ, do duyên ǵ, đại địa chấn động hiển lộ như vậy?
11. - Này Ananda, có tám nhân, có tám duyên, khiến đại địa chấn động.
Thế nào là tám?
12. Này Ananda, đại địa này thiết lập trên nước, nước ở trên gió và gió
ở trên hư không. Này Ananda, đến thời gió lớn khởi lên, khi gió lớn thổi
lên nước rung động, và khi nước rung động th́ quả đất rung động. Đó là
nhân thứ nhất, duyên thứ nhất, đại địa chấn động.
13. Lại nữa, này Ananda, có Sa-môn hay Bà-la-môn có thần thông, tâm được
tự tại, hay hàng chư Thiên có đại thần thông, có đại uy lực; những vị
này tu tập địa tưởng có hạn, thủy tưởng vô lượng, vị ấy có thể khiến quả
đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Này Ananda, đó là nhân
thứ hai, duyên thứ hai, khiến đại địa chấn động.
14. Lại nữa, này Ananda, khi Bồ-tát từ bỏ thân chư Thiên Tusità
(Đâu-xuất), chánh niệm, tỉnh giác, nhập vào mẫu thai, khi ấy quả đất này
rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Này Ananda, đó là nhân thứ ba,
duyên thứ ba, khiến đại địa chấn động.
15. Lại nữa, này Ananda, khi Bồ-tát, chánh niệm, tỉnh giác, ra khỏi mẫu
thai; khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Này
Ananda, đó là nhân thứ tư, duyên thứ tư, khiến đại địa chấn động.
16. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh Đẳng
Giác; khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Này
Ananda, đó là nhân thứ năm, duyên thứ năm, khiến đại địa chấn động.
17. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai chuyển bánh xe Pháp; khi ấy quả đất
này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Này Ananda, đó là nhân thứ
sáu, duyên thứ sáu, khiến đại địa chấn động.
18. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ không
duy tŕ mạng sống (thọ hành); khi ấy quả đất này rung động, chuyển động,
chấn động mạnh. Này Ananda, đó là nhân thứ bảy, duyên thứ bảy, khiến đại
địa chấn động.
19. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai nhập Vô dư Niết-bàn; khi ấy quả đất
này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Này Ananda, đó là nhân thứ
tám, duyên thứ tám, khiến đại địa chấn động.
Này Ananda, có tám nhân này, tám duyên này khiến đại địa chấn động.
|