NGƯỜI ĐẤT
PHƯƠNG TÂY HAY NGƯỜI ĐĂ CHẾT (Asibandhakaputtasutta)
358.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā nāḷandāyaṃ viharati pāvārikambavane. Atha kho
asibandhakaputto gāmaṇi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho
asibandhakaputto gāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca –
Một thời
Thế Tôn trú ở Nāḷandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng
Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Asibandhakaputta
bạch Thế Tôn:
"Brāhmaṇā,
bhante, pacchā bhūmakā kāmaṇḍalukā sevālamālikā udakorohakā
aggiparicārakā. Te mataṃ kālaṅkataṃ uyyāpenti nāma saññāpenti nāma
saggaṃ nāma okkāmenti.
Bạch Thế
Tôn, các vị Bà-la-môn trú đất phương Tây, mang theo b́nh nước, đeo
ṿng hoa huệ, nhờ nước được thanh tịnh. Những người thờ lửa, khi một
người đă chết, đă mệnh chung, họ nhắc bổng và mang vị ấy ra ngoài,
kêu tên vị ấy lên, và dẫn vị ấy vào thiên giới.
Bhagavā
pana, bhante, arahaṃ sammāsambuddho pahoti tathā kātuṃ yathā sabbo
loko kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjeyyā"ti?
Bạch Thế
Tôn, phần Ngài là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Thế Tôn có thể làm
như thế nào cho toàn thể thế giới, sau khi chết đi được sanh về
thiện thú thiên giới?
"Tena hi,
gāmaṇi, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā te khameyya tathā naṃ
byākareyyāsī"ti.
Vậy, này
Thôn trưởng, ở đây, Ta sẽ hỏi ngươi. Ngươi hăy suy nghĩ để trả lời.
"Taṃ kiṃ
maññasi, gāmaṇi, idhassa puriso pāṇātipātī adinnādāyī
kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavāco pharusavāco samphappalāpī
abhijjhālu byāpannacitto micchādiṭṭhiko.
Này Thôn
trưởng, ngươi nghĩ thế nào? Ở đây, một người sát sanh, trộm cướp, tà
dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham
lam, sân hận, theo tà kiến.
Tamenaṃ
mahā janakāyo saṅgamma samāgamma āyāceyya thomeyya pañjaliko
anuparisakkeyya – ‘ayaṃ puriso kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ
saggaṃ lokaṃ upapajjatū’ti.
Rồi một
đám đông quần chúng tụ tập, họp mặt, cầu khẩn, xưng tán, lễ bái tứ
phương và nói rằng: "Mong người này, sau khi từ trần, được sanh về
thiện thú thiên giới !"
Taṃ kiṃ
maññasi, gāmaṇi, api nu so puriso mahato janakāyassa āyācanahetu vā
thomanahetu vā pañjalikā anuparisakkanahetu vā kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjeyyā"ti?
Ngươi
nghĩ thế nào, này thôn trưởng, người ấy có thể nhờ vào việc cầu khẩn
hay lời xưng tán, hoặc chuyện lễ bái tứ phương của đám đông đó mà
sau khi chết đi, được sanh về thiện thú thiên giới hay không?
"No hetaṃ,
bhante".
Thưa
không, bạch Thế Tôn.
"Seyyathāpi, gāmaṇi, puriso mahatiṃ puthusilaṃ gambhīre udakarahade
pakkhipeyya. Tamenaṃ mahā janakāyo saṅgamma samāgamma āyāceyya
thomeyya pañjaliko anuparisakkeyya – ‘ummujja, bho puthusile,
uplava, bho puthusile, thalamuplava, bho puthusile’ti. Taṃ kiṃ
maññasi, gāmaṇi, api nu sā puthusilā mahato janakāyassa āyācanahetu
vā thomanahetu vā pañjalikā anuparisakkanahetu vā ummujjeyya vā
uplaveyya vā thalaṃ vā uplaveyyā"ti?
Ví như,
này thôn trưởng, có người lấy một tảng đá lớn ném xuống một hồ nước
sâu. Rồi một đám đông quần chúng, tụ tập, họp mặt, cầu khẩn, xưng
tán, lễ bái tứ phương và nói rằng: "Hăy trồi lên, tảng đá ơi! Hăy
nổi lên, tảng đá ơi ! Hăy trôi vào bờ, tảng đá ơi!". Ngươi nghĩ thế
nào, này thôn trưởng, tảng đá lớn ấy có thể nhờ vào lời cầu khẩn,
hay lời xưng tán, hoặc việc lễ bái tứ phương của đám đông đó mà trồi
lên, nổi lên, hay trôi dạt vào bờ không?
"No hetaṃ,
bhante".
Thưa
không, bạch Thế Tôn.
"Evameva
kho, gāmaṇi, yo so puriso pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī
musāvādī pisuṇavāco pharusavāco samphappalāpī abhijjhālu
byāpannacitto micchādiṭṭhiko.
Cũng
vậy, này Thôn trưởng, người nào sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng
ngữ, lưỡng thiệt, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân
hận, theo tà kiến.
Kiñcāpi taṃ
mahā janakāyo saṅgamma samāgamma āyāceyya thomeyya pañjaliko
anuparisakkeyya – ‘ayaṃ puriso kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ
saggaṃ lokaṃ upapajjatū’"ti, atha kho so puriso kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjeyya.
Rồi một
đám đông quần chúng tụ tập, họp mặt, cầu khẩn, xưng tán, lễ bái tứ
phương và nói rằng: "Mong người này, sau khi từ trần được sanh về
thiện thú thiên giới !" Nhưng người ấy, sau khi chết đi vẫn phải
sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
"Taṃ kiṃ
maññasi, gāmaṇi, idhassa puriso pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā
paṭivirato kāmesumicchācārā paṭivirato musāvādā paṭivirato pisuṇāya
vācāya paṭivirato pharusāya vācāya paṭivirato samphappalāpā
paṭivirato anabhijjhālu abyāpannacitto sammādiṭṭhiko. Tamenaṃ mahā
janakāyo saṅgamma samāgamma āyāceyya thomeyya pañjaliko
anuparisakkeyya – ‘ayaṃ puriso kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ
duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjatū’ti.
Ngươi
nghĩ thế nào, này thôn trưởng. Ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ
trộm cướp, từ bỏ tà dâm, từ bỏ vọng ngữ, từ bỏ lưỡng thiệt, từ bỏ
lời độc ác, từ bỏ lời phù phiếm, không có tham, không có sân hận, có
chánh kiến. Rồi một đám đông quần chúng tụ tập, họp mặt, cầu khẩn,
xưng tán, lễ bái tứ phương và nói rằng: "Xin cho người này sau khi
từ trần, được sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!"
Taṃ kiṃ
maññasi, gāmaṇi, api nu so puriso mahato janakāyassa āyācanahetu vā
thomanahetu vā pañjalikā anuparisakkanahetu vā kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjeyyā’’ti?
Ngươi
nghĩ thế nào, này thôn trưởng, người ấy có thể do việc cầu khẩn hay
do lời xưng tán, hoặc việc lễ bái tứ phương của đám đông đó mà sau
khi chết đi phải bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục không?
"No hetaṃ,
bhante".
Thưa
không, bạch Thế Tôn.
"Seyyathāpi, gāmaṇi, puriso sappikumbhaṃ vā telakumbhaṃ vā gambhīre
udakarahade ogāhetvā bhindeyya. Tatra yāssa sakkharā vā kaṭhalā vā
sā adhogāmī adhogāminī assa; yañca khvassa tatra sappi vā telaṃ vā
taṃ uddhaṃ gāmi assa.
Ví như,
này thôn trưởng, có người nhận ch́m một ghè bơ hay một ghè dầu vào
trong một hồ nước sâu rồi đập bể ghè ấy. Ở đây, ghè ấy trở thành
từng miếng vụn, hay từng mảnh vụn và ch́m xuống nước. C̣n bơ hay dầu
th́ nổi lên trên.
Tamenaṃ
mahā janakāyo saṅgamma samāgamma āyāceyya thomeyya pañjaliko
anuparisakkeyya – ‘osīda, bho sappitela, saṃsīda, bho sappitela,
adho gaccha, bho sappitelā’ti.
Rồi một
đám đông quần chúng tụ tập, họp mặt, cầu khẩn, xưng tán, lễ bái tứ
phương và nói rằng: "Hăy ch́m xuống, bơ ơi, dầu ơi! Hăy ch́m sâu
xuống, bơ ơi, dầu ơi ! Hăy ch́m xuống tận đáy, bơ ơi, dầu ơi!"
Taṃ kiṃ
maññasi, gāmaṇi, api nu taṃ sappitelaṃ mahato janakāyassa
āyācanahetu vā thomanahetu vā pañjalikā anuparisakkanahetu vā
osīdeyya vā saṃsīdeyya vā adho vā gaccheyyā"ti?
Ngươi
nghĩ thế nào, này thôn trưởng, bơ và dầu ấy, có do việc cầu khẩn hay
lời tán dương, hoặc việc lễ bái tứ phương của đám đông đó mà bị ch́m
xuống, hay ch́m sâu xuống, hay đi xuống tận đáy không?
‘‘No hetaṃ,
bhante’’.
Thưa
không, bạch Thế Tôn.
"Evameva
kho, gāmaṇi, yo so puriso pāṇātipātā paṭivirato, adinnādānā
paṭivirato, kāmesumicchācārā paṭivirato, musāvādā paṭivirato,
pisuṇāya vācāya paṭivirato, pharusāya vācāya paṭivirato,
samphappalāpā paṭivirato, anabhijjhālu, abyāpannacitto,
sammādiṭṭhiko,
Cũng
vậy, này thôn trưởng, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cướp, từ
bỏ tà dâm, từ bỏ vọng ngữ, từ bỏ lưỡng thiệt, từ bỏ lời độc ác, từ
bỏ lời phù phiếm, không có tham, không có sân, theo chánh kiến.
kiñcāpi taṃ
mahā janakāyo saṅgamma samāgamma āyāceyya thomeyya pañjaliko
anuparisakkeyya – ‘ayaṃ puriso kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ
duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjatū’ti, atha kho so puriso kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjeyyā"ti.
Rồi một đám đông
quần chúng, tụ tập, họp mặt, cầu khẩn, xưng tán, lễ bái tứ phương và
nói rằng: "Xin cho người này sau khi từ trần sẽ sanh vào cơi dữ ác
thú, đọa xứ, địa ngục!" Nhưng người ấy sau khi chết đi vẫn được sanh
về thiện thú thiên giới
NHỮNG BÀI KINH CỐT TỦY