10.
Bhikkhusaṃyuttaṃ |
10.
Bhikkhusaṃyuttaṃ |
Chương Mười: Tương
Ưng Tỷ Kheo |
1. Kolitasuttaṃ |
1.
Kolitasuttavaṇṇanā |
I. Kolita (Tạp, Ðại
2, 132a) (S.ii,273) |
235. Evaṃ me
sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane
anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho āyasmā mahāmoggallāno bhikkhū āmantesi
– ‘‘āvuso bhikkhave’’ti. ‘‘Āvuso’’ti kho te bhikkhū āyasmato
mahāmoggallānassa paccassosuṃ.
Āyasmā mahāmoggallāno etadavoca – ‘‘idha mayhaṃ, āvuso, rahogatassa
paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘ariyo tuṇhībhāvo,
ariyo tuṇhībhāvoti vuccati. Katamo nu kho ariyo tuṇhībhāvo’ti? Tassa
mayhaṃ āvuso, etadahosi – ‘idha bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā
ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ
pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati ariyo
tuṇhībhāvo’ti. So khvāhaṃ, āvuso, vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ
sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ
dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja vihariṃ. Tassa mayhaṃ, āvuso, iminā vihārena
viharato vitakkasahagatā saññā manasikārā samudācaranti’’.
‘‘Atha kho maṃ, āvuso, bhagavā iddhiyā upasaṅkamitvā etadavoca –
‘moggallāna, moggallāna, mā, brāhmaṇa, ariyaṃ tuṇhībhāvaṃ pamādo, ariye
tuṇhībhāve cittaṃ saṇṭhapehi, ariye tuṇhībhāve cittaṃ ekodibhāvaṃ
karohi, ariye tuṇhībhāve cittaṃ samādahā’ti. So khvāhaṃ, āvuso, aparena
samayena vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso
ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ
upasampajja viharāmi. Yañhi taṃ, āvuso , sammā vadamāno vadeyya –
‘satthārā anuggahito sāvako mahābhiññataṃ patto’ti, mamaṃ taṃ sammā
vadamāno vadeyya – ‘satthārā anuggahito sāvako mahābhiññataṃ patto’’’ti.
Paṭhamaṃ. |
235.
Bhikkhusaṃyuttassa paṭhame, āvusoti sāvakānaṃ ālāpo. Buddhā hi
bhagavanto sāvake ālapantā, ‘‘bhikkhave’’ti ālapanti, sāvakā pana
‘‘buddhehi sadisā mā homā’’ti, ‘‘āvuso’’ti paṭhamaṃ vatvā pacchā,
‘‘bhikkhave’’ti bhaṇanti. Buddhehi ca ālapite bhikkhusaṅgho,
‘‘bhante’’ti paṭivacanaṃ deti sāvakehi, ‘‘āvuso’’ti. Ayaṃ vuccatīti
yasmā dutiyajjhāne vitakkavicārā nirujjhanti, yesaṃ nirodhā saddāyatanaṃ
appavattiṃ gacchati, tasmā yadetaṃ dutiyaṃ jhānaṃ nāma, ayaṃ vuccati
‘‘ariyānaṃ tuṇhībhāvo’’ti. Ayamettha yojanā. ‘‘Dhammī vā kathā ariyo vā
tuṇhībhāvo’’ti ettha pana kammaṭṭhānamanasikāropi paṭhamajjhānādīnipi
ariyo tuṇhībhāvotveva saṅkhaṃ gatāni.
Vitakkasahagatāti vitakkārammaṇā. Saññāmanasikārāti saññā ca manasikāro
ca. Samudācarantīti pavattanti. Therassa kira dutiyajjhānaṃ na paguṇaṃ.
Athassa tato vuṭṭhitassa vitakkavicārā na santato upaṭṭhahiṃsu. Iccassa
dutiyajjhānampi saññāmanasikārāpi hānabhāgiyāva ahesuṃ, taṃ dassento
evamāha. Saṇṭhapehīti sammā ṭhapehi. Ekodibhāvaṃ karohīti ekaggaṃ
karohi. Samādahāti sammā ādaha āropehi. Mahābhiññatanti chaḷabhiññataṃ.
Satthā kira iminā upāyena satta divase therassa hānabhāgiyaṃ samādhiṃ
vaḍḍhetvā theraṃ chaḷabhiññataṃ pāpesi. Paṭhamaṃ. |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại
vườn ông Anàthapindika. 2) Tại đấy, Tôn giả Mahà Moggallàna (Ðại
Mục-kiền-liên) gọi các Tỷ-kheo: -- Này các Hiền giả Tỷ-kheo. -- Thưa vâng, Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahà
Moggallàna. 3) Tôn giả Mahà Moggallàna nói: -- Ở đây, này Hiền giả, trong khi tôi độc
trú tĩnh cư, tâm tưởng tư duy như sau được khởi lên: "Thánh im lặng được
gọi là Thánh im lặng. Thế nào là Thánh im lặng?" 4) Rồi này các Hiền giả, tôi suy nghĩ như
sau: "Ở đây, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm".
Như vậy gọi là Thánh im lặng. 5) Rồi này các Hiền giả, tôi diệt tầm và
tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Hiền giả, khi tôi an trú
với sự an trú như vậy, các tưởng câu hữu với tầm, các tác ý hiện khởi và
hiện hành. 6) Rồi này các Hiền giả, Thế Tôn bằng thần
thông đến với tôi và nói: "Moggallàna, Moggallàna, chớ có phóng dật. Này
Bà-la-môn, đối với Thánh im lặng, hãy an trú tâm vào Thánh im lặng, hãy
chú nhất tâm vào Thánh im lặng, hãy chú định tâm vào Thánh im lặng". 7) Rồi này các Hiền giả, sau một thời gian,
tôi diệt tầm và tứ, chứng và trú vào Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhứt tâm. Này các Hiền
giả, nếu ai nói một cách chơn chánh, sẽ nói như sau: "Ðược bậc Ðạo Sư hỗ
trợ, vị đệ tử chứng đạt đại thắng trí". Người ấy nói một cách chơn
chánh, sẽ nói về tôi: "Ðược bậc Ðạo Sư hỗ trợ, vị đệ tử chứng đạt đại
thắng trí". |
2. Upatissasuttaṃ |
2.
Upatissasuttavaṇṇanā |
II. Upatissa...
(S.ii,274) |
236.
Sāvatthiyaṃ viharati. Tatra kho āyasmā sāriputto bhikkhū āmantesi –
‘‘āvuso bhikkhave’’ti. ‘‘Āvuso’’ti kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa
paccassosuṃ. Āyasmā sāriputto etadavoca –
‘‘Idha mayhaṃ, āvuso, rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko
udapādi – ‘atthi nu kho taṃ kiñci lokasmiṃ yassa me
vipariṇāmaññathābhāvā uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā’ti?
Tassa mayhaṃ, āvuso, etadahosi – ‘natthi kho taṃ kiñci lokasmiṃ yassa me
vipariṇāmaññathābhāvā uppajjeyyuṃ
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā’’’ti.
Evaṃ vutte, āyasmā ānando āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – ‘‘satthupi
kho te, āvuso sāriputta, vipariṇāmaññathābhāvā nuppajjeyyuṃ
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā’’ti? ‘‘Satthupi kho me, āvuso,
vipariṇāmaññathābhāvā nuppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā,
api ca me evamassa – ‘mahesakkho vata, bho, satthā antarahito mahiddhiko
mahānubhāvo. Sace hi bhagavā ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭheyya tadassa
bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya
devamanussāna’nti. Tathā hi panāyasmato sāriputtassa dīgharattaṃ
ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā susamūhatā. Tasmā āyasmato sāriputtassa
satthupi vipariṇāmaññathābhāvā nuppajjeyyuṃ
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā’’ti. Dutiyaṃ. |
236. Dutiye
atthi nu kho taṃ kiñci lokasminti idaṃ atiuḷārampi sattaṃ vā saṅkhāraṃ
vā sandhāya vuttaṃ. Satthupi khoti idaṃ yasmā ānandattherassa satthari
adhimatto chando ca pemañca, tasmā ‘‘kiṃ nu kho imassa therassa satthu
vipariṇāmenapi sokādayo nuppajjeyyu’’nti jānanatthaṃ pucchati?
Dīgharattanti sūkarakhataleṇadvāre dīghanakhaparibbājakassa
vedanāpariggahasuttantaṃ desitadivasato paṭṭhāya atikkantakālaṃ
sandhāyāha. Tasmiñhi divase therassa ime vaṭṭānugatakilesā samūhatāti.
Dutiyaṃ. |
1) Nhơn duyên ở Sàvatthi. 2) Tại đấy, Tôn giả Sàriputta gọi các
Tỷ-kheo: -- Này các Hiền giả Tỷ-kheo. -- Thưa vâng, Hiền giả. Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Sàriputta. 3) Tôn giả Sàriputta nói: -- Ở đây, này các Hiền giả, trong khi tôi
độc trú tĩnh cư, tâm tưởng tư duy như sau được khởi lên: "Có cái gì
trong đời, khi bị biến hoại, trạng huống đổi khác, có thể khởi lên nơi
ta sầu, bi, khổ, ưu, não?". Rồi này các Hiền giả, tôi suy nghĩ: "Không
có cái gì trong đời, khi bị biến hoại, trạng huống đổi khác, có thể khởi
lên nơi ta sầu, bi, khổ, ưu, não". 4) Khi được nói vậy, Tôn giả Ananda nói với
Tôn giả Sàriputta: -- Bậc Ðạo Sư, này Hiền giả Sàriputta, khi
bị biến hoại, trạng huống đổi khác, có thể khởi lên nơi Hiền giả sầu,
bi, khổ, ưu, não? 5) -- Bậc Ðạo Sư, này Hiền giả Ananda, khi
bị biến hoại, trạng thái đổi khác, không có thể khởi lên nơi ta sầu, bi,
khổ, ưu, não. Nhưng ta có thể suy nghĩ: "Mong rằng bậc Ðại Thế Lực, bậc
Ðạo Sư có đại thần thông, có đại uy lực chớ có biến diệt! Nếu bậc Thế
Tôn ấy an trú lâu dài, thời như vậy thật là hạnh phúc cho quần sanh,
thật là an lạc cho quần sanh, vì lòng từ mẫn cho đời, vì lợi ích, vì
hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người". 6) -- Như vậy đối với Tôn giả Sàriputta,
ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn, tùy miên được khéo đoạn trừ đã lâu ngày. 7) Do vậy, đối với Tôn giả Sàriputta, dầu
cho bậc Ðạo Sư có biến hoại, trạng huống có đổi khác, cũng không khởi
lên sầu, bi, khổ, ưu, não. |
3. Ghaṭasuttaṃ |
3.
Ghaṭasuttavaṇṇanā |
III. Cái Ghè (Tạp
18-14 Tịch Diệt, Ðại 2, 132c) (S.ii,275) |
237. Evaṃ me
sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane
anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena āyasmā ca sāriputto
āyasmā ca mahāmoggallāno rājagahe viharanti veḷuvane kalandakanivāpe
ekavihāre. Atha kho āyasmā sāriputto sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito
yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā
mahāmoggallānena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ
vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā sāriputto
āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ etadavoca –
‘‘Vippasannāni kho te, āvuso moggallāna, indriyāni; parisuddho
mukhavaṇṇo pariyodāto santena nūnāyasmā mahāmoggallāno ajja vihārena
vihāsī’’ti. ‘‘Oḷārikena khvāhaṃ, āvuso, ajja vihārena vihāsiṃ. Api ca,
me ahosi dhammī kathā’’ti. ‘‘Kena saddhiṃ panāyasmato mahāmoggallānassa
ahosi dhammī kathā’’ti? ‘‘Bhagavatā kho me, āvuso, saddhiṃ ahosi dhammī
kathā’’ti. ‘‘Dūre kho, āvuso, bhagavā etarahi sāvatthiyaṃ viharati
jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Kiṃ nu kho, āyasmā, mahāmoggallāno
bhagavantaṃ iddhiyā upasaṅkami; udāhu bhagavā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ
iddhiyā upasaṅkamī’’ti? ‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, bhagavantaṃ iddhiyā
upasaṅkamiṃ; napi maṃ bhagavā iddhiyā upasaṅkami. Api ca, me yāvatā
bhagavā ettāvatā dibbacakkhu visujjhi dibbā ca sotadhātu. Bhagavatopi
yāvatāhaṃ ettāvatā dibbacakkhu visujjhi dibbā ca sotadhātū’’ti.
‘‘Yathākathaṃ panāyasmato mahāmoggallānassa bhagavatā saddhiṃ ahosi
dhammī kathā’’ti?
‘‘Idhāhaṃ, āvuso, bhagavantaṃ etadavocaṃ – ‘āraddhavīriyo
āraddhavīriyoti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante,
āraddhavīriyo hotī’ti? Evaṃ vutte, maṃ, āvuso, bhagavā etadavoca –
‘idha, moggallāna, bhikkhu āraddhavīriyo viharati – kāmaṃ taco ca nhāru
ca aṭṭhī ca avasissatu, sarīre upasussatu maṃsalohitaṃ, yaṃ taṃ
purisathāmena purisavīriyena purisaparakkamena pattabbaṃ na taṃ
apāpuṇitvā vīriyassa saṇṭhānaṃ bhavissatīti. Evaṃ kho, moggallāna,
āraddhavīriyo hotī’ti. Evaṃ kho me, āvuso, bhagavatā saddhiṃ ahosi
dhammī kathā’’ti.
‘‘Seyyathāpi, āvuso, himavato pabbatarājassa parittā pāsāṇasakkharā
yāvadeva upanikkhepanamattāya ; evameva kho mayaṃ āyasmato
mahāmoggallānassa yāvadeva upanikkhepanamattāya. Āyasmā hi
mahāmoggallāno mahiddhiko mahānubhāvo ākaṅkhamāno kappaṃ tiṭṭheyyā’’ti.
‘‘Seyyathāpi , āvuso, mahatiyā loṇaghaṭāya parittā loṇasakkharāya
yāvadeva upanikkhepanamattāya; evameva kho mayaṃ āyasmato sāriputtassa
yāvadeva upanikkhepanamattāya. Āyasmā hi sāriputto bhagavatā
anekapariyāyena thomito vaṇṇito pasattho –
‘‘Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena ca;
Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā’’ti.
Itiha te ubho mahānāgā aññamaññassa subhāsitaṃ sulapitaṃ
samanumodiṃsūti. Tatiyaṃ. |
237. Tatiye
ekavihāreti ekasmiṃ gabbhe. Tadā kira bahū āgantukā bhikkhū
sannipatiṃsu. Tasmiṃ pariveṇaggena vā vihāraggena vā senāsanesu
apāpuṇantesu dvinnaṃ therānaṃ eko gabbho sampatto. Te divā pāṭiyekkesu
ṭhānesu nisīdanti, rattiṃ pana nesaṃ antare cīvarasāṇiṃ pasārenti. Te
attano attano pattapattaṭṭhāneyeva nisīdanti. Tena vuttaṃ
‘‘ekavihāre’’ti. Oḷārikenāti idaṃ oḷārikārammaṇataṃ sandhāya vuttaṃ.
Dibbacakkhudibbasotadhātuvihārena hi so vihāsi, tesañca
rūpāyatanasaddāyatanasaṅkhātaṃ oḷārikaṃ ārammaṇaṃ. Iti dibbacakkhunā
rūpassa diṭṭhattā dibbāya ca sotadhātuyā saddassa sutattā so vihāro
oḷāriko nāma jāto. Dibbacakkhu visujjhīti bhagavato rūpadassanatthāya
visuddhaṃ ahosi. Dibbā ca sotadhātūti sāpi bhagavato saddasuṇanatthaṃ
visujjhi . Bhagavatopi therassa rūpadassanatthañceva saddasuṇanatthañca
tadubhayaṃ visujjhi. Tadā kira thero ‘‘kathaṃ nu kho etarahi satthā
viharatī’’ti ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbena cakkhunā satthāraṃ jetavane vihāre
gandhakuṭiyaṃ nisinnaṃ disvā tassa dibbāya sotadhātuyā saddaṃ suṇi.
Satthāpi tatheva akāsi. Evaṃ te aññamaññaṃ passiṃsu ceva, saddañca
assosuṃ.
Āraddhavīriyoti paripuṇṇavīriyo paggahitavīriyo. Yāvadeva
upanikkhepanamattāyāti tiyojanasahassavitthārassa himavato santike
ṭhapitā sāsapamattā pāsāṇasakkharā ‘‘himavā nu kho mahā, ayaṃ nu kho
pāsāṇasakkharā’’ti evaṃ yāva upanikkhepanamattasseva atthāya bhaveyyāti
vuttaṃ hoti. Paratopi eseva nayo. Kappanti āyukappaṃ. Loṇaghaṭāyāti
cakkavāḷamukhavaṭṭiyā ādhārakaṃ katvā mukhavaṭṭiyā brahmalokaṃ āhacca
ṭhitāya loṇacāṭiyāti dasseti.
Ime pana therā upamaṃ āharantā sarikkhakeneva ca vijjamānaguṇena ca
āhariṃsu. Kathaṃ? Ayañhi iddhi nāma accuggataṭṭhena ceva vipulaṭṭhena ca
himavantasadisā, paññā catubhūmakadhamme anupavisitvā ṭhitaṭṭhena
sabbabyañjanesu anupaviṭṭhaloṇarasasadisā. Evaṃ tāva sarikkhakaṭṭhena
āhariṃsu. Samādhilakkhaṇaṃ pana mahāmoggallānattherassa vibhūtaṃ
pākaṭaṃ. Kiñcāpi sāriputtattherassa avijjamānaiddhi nāma natthi,
bhagavatā pana ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ
iddhimantānaṃ yadidaṃ mahāmoggallāno’’ti ayameva etadagge ṭhapito.
Vipassanālakkhaṇaṃ pana sāriputtattherassa vibhūtaṃ pākaṭaṃ. Kiñcāpi
mahāmoggallānattherassāpi paññā atthi, bhagavatā pana ‘‘etadaggaṃ,
bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ mahāpaññānaṃ yadidaṃ sāriputto’’ti
(a. ni. 1.189) ayameva etadagge ṭhapito. Tasmā yathā ete aññamaññassa
dhuraṃ na pāpuṇanti, evaṃ vijjamānaguṇena āhariṃsu.
Samādhilakkhaṇasmiñhi mahāmoggallāno nipphattiṃ gato, vipassanālakkhaṇe
sāriputtatthero, dvīsupi etesu sammāsambuddhoti. Tatiyaṃ. |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ),
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc). 2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta và Tôn
giả Mahà Moggallàna cùng ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm) tại
chỗ nuôi dưỡng các con sóc, chung một tịnh xá. 3) Rồi Tôn giả Sàriputta, từ chỗ độc cư
Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Moggallàna; sau khi đến, nói
lên với Tôn giả Mahà Moggallàna những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu bèn ngồi xuống một bên. 4) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta
nói với Tôn giả Mahà Moggallàna: -- Này Hiền giả Moggallàna, các căn của
Hiền giả thật là tịch tịnh; sắc mặt thật là thanh tịnh, trong sáng. Có
phải hôm nay Tôn giả Mahà Moggallàna an trú với sự an trú tịnh lạc? -- Thưa Hiền giả, hôm nay tôi an trú với sự
an trú thô thiển. Tôi có được một cuộc pháp thoại. 5) -- Với ai, Tôn giả Mahà Moggallàna có
được một cuộc đàm luận về Chánh pháp? -- Thưa Hiền giả, tôi có một cuộc pháp
thoại với Thế Tôn. 6) -- Ở xa, thưa Hiền giả, là Thế Tôn. Hiện
nay Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. Có phải
Tôn giả Mahà Moggallàna đi đến Thế Tôn bằng thần thông hay Thế Tôn đi
đến Tôn giả Mahà Moggallàna bằng thần thông? 7) -- Thưa Hiền giả, tôi không đi đến Thế
Tôn bằng thần thông. Và Thế Tôn cũng không đi đến tôi bằng thần thông.
Tôi như thế nào thời Thế Tôn được thiên nhãn thanh tịnh, cả thiên nhĩ
nữa như vậy! Thế Tôn như thế nào thời tôi được thiên nhãn thanh tịnh, cả
thiên nhĩ nữa như vậy. 8) -- Như thế nào là cuộc pháp thoại giữa
Tôn giả Mahà Moggallàna với Thế Tôn? 9) -- Ở đây, thưa Hiền giả, tôi bạch với
Thế Tôn: "-- Bạch Thế Tôn ở đây tinh cần, tinh tấn,
được gọi là tinh cần, tinh tấn. Như thế nào, bạch Thế Tôn, là tinh cần,
tinh tấn?". 10) Khi được nói vậy, thưa Hiền giả, Thế
Tôn nói với tôi: "-- Ở đây, này Moggallàna, Tỷ-kheo sống
tinh cần, tinh tấn: ‘Dầu cho da, dây gân và xương có khô héo, dầu thịt
và máu có héo tàn trên thân tôi, cái gì có thể lấy sức lực của người,
tinh tấn của người, nỗ lực của người có thể đạt được; nếu chưa đạt được,
thời tinh tấn sẽ không bao giờ dừng nghỉ’. Như vậy, này Moggallàna, là
sự tinh cần, tinh tấn". 11) Như vậy, này Hiền giả, là cuộc pháp
thoại giữa Thế Tôn và tôi. 12) Ví như, này Hiền giả, một đống hòn sạn
nhỏ đem đặt dài theo Hy-mã-lạp sơn, vua các loài núi. Cũng vậy, là chúng
tôi được đem đặt dài theo Tôn giả Mahà Moggallàna. Mong rằng Tôn giả
Mahà Moggallàna, bậc đại thần thông, đại uy lực, nếu muốn hãy sống cho
đến một kiếp. 13) Ví như, này Hiền giả, một nắm muối nhỏ
được đem đặt dài theo một ghè muối lớn. Cũng vậy, là chúng tôi được đem
đặt dài theo Tôn giả Sàriputta. 14) Tôn giả Sàriputta được Thế Tôn dùng
nhiều phương tiện xưng tán, tán thán, tán dương: Như vị Xá-lợi-phất, 15) Như vậy, hai bậc Long Tượng ấy (Nàgà)
cùng nhau hoan hỷ, tán thán trong câu chuyện khéo nói, khéo thuyết. |
4. Navasuttaṃ |
4. Navasuttavaṇṇanā |
IV. Tân Tỷ Kheo
(Ðại 2, 277c, 376a) (S.ii,277) |
238.
Sāvatthiyaṃ viharati. Tena kho pana samayena aññataro navo bhikkhu
pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vihāraṃ pavisitvā appossukko
tuṇhībhūto saṅkasāyati, na bhikkhūnaṃ veyyāvaccaṃ karoti
cīvarakārasamaye. Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā
tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ
nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ –
‘‘idha , bhante, aññataro navo bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto
vihāraṃ pavisitvā appossukko tuṇhībhūto saṅkasāyati, na bhikkhūnaṃ
veyyāvaccaṃ karoti cīvarakārasamaye’’ti.
Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama
vacanena taṃ bhikkhuṃ āmantehi ‘satthā taṃ, āvuso, āmantetī’’’ti. ‘‘Evaṃ
bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yena so bhikkhu
tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ,
āvuso, āmantetī’’ti. ‘‘Evamāvuso’’ti kho so bhikkhu tassa bhikkhuno
paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ
abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi . Ekamantaṃ nisinnaṃ kho taṃ bhikkhuṃ
bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, pacchābhattaṃ
piṇḍapātapaṭikkanto vihāraṃ pavisitvā appossukko tuṇhībhūto saṅkasāyasi,
na bhikkhūnaṃ veyyāvaccaṃ karosi cīvarakārasamaye’’ti? ‘‘Ahampi kho,
bhante, sakaṃ kiccaṃ karomī’’ti.
Atha kho bhagavā tassa bhikkhuno cetasā cetoparivitakkamaññāya bhikkhū
āmantesi – ‘‘mā kho tumhe, bhikkhave, etassa bhikkhuno ujjhāyittha. Eso
kho, bhikkhave, bhikkhu catunnaṃ jhānānaṃ ābhicetasikānaṃ
diṭṭhadhammasukhavihārānaṃ nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī, yassa
catthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti,
tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja viharatī’’ti.
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Nayidaṃ sithilamārabbha, nayidaṃ appena thāmasā;
Nibbānaṃ adhigantabbaṃ, sabbadukkhappamocanaṃ.
‘‘Ayañca daharo bhikkhu, ayamuttamapuriso;
Dhāreti antimaṃ dehaṃ, jetvā māraṃ savāhini’’nti. catutthaṃ; |
238. Catutthe
appossukkoti nirussukko. Saṅkasāyatīti viharati. Veyyāvaccanti cīvare
kattabbakiccaṃ. Ābhicetasikānanti abhicittaṃ uttamacittaṃ nissitānaṃ.
Nikāmalābhīti icchiticchitakkhaṇe samāpajjanasamatthatāya nikāmalābhī.
Akicchalābhīti jhānapāripanthike sukhena vikkhambhetvā
samāpajjanasamatthatāya adukkhalābhī. Akasiralābhīti yathāparicchedena
vuṭṭhānasamatthatāya vipulalābhī, paguṇajjhānoti attho.
Sithilamārabbhāti sithilavīriyaṃ pavattetvā. Catutthaṃ.
|
1) ... Trú ở Sàvatthi. 2) Lúc bấy giờ, một tân Tỷ-kheo sau buổi
ăn, trên con đường khất thực trở về, đi vào tịnh xá, rảnh rỗi, yên lặng,
phân vân (không biết làm gì), không phụ việc với các Tỷ-kheo trong thời
gian may y. 3) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 4) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn: -- Ở đây, bạch Thế Tôn, có một tân Tỷ-kheo
sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi vào tịnh xá, rảnh rỗi,
im lặng, phân vân (không biết làm gì), không phụ việc với các Tỷ-kheo
trong thời gian may y. 5) Rồi Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo: -- Hãy đến, này Tỷ-kheo, nhân danh Ta, hãy
gọi Tỷ-kheo ấy và nói: "Này Hiền giả, bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả". 6) -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tỷ-kheo
kia; sau khi đến nói với Tỷ-kheo ấy: -- Thưa Hiền giả, bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền
giả. 7) -- Thưa vâng, này Hiền giả. Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tỷ-kheo kia, đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 8) Thế Tôn nói với Tỷ-kheo đang ngồi xuống
một bên: -- Có thật chăng, này Tỷ-kheo, sau bữa ăn,
trên con đường đi khất thực trở về, sau khi vào tịnh xá, Ông rảnh rỗi,
im lặng, phân vân (không biết làm gì), không phụ việc với các Tỷ-kheo
trong thời gian may y? -- Bạch Thế Tôn, con làm việc của con. 9) Rồi Thế Tôn, với tâm của mình biết tâm
Tỷ-kheo ấy, liền gọi các Tỷ-kheo: -- Này các Tỷ-kheo, các Ông chớ có bực
phiền với Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này chứng được không có
khó khăn, chứng được không có mệt nhọc, chứng được không phí sức bốn
Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú. Vị ấy còn tự mình ngay
trong hiện tại, chứng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu
cánh Phạm hạnh mà vì mục đích này, con các lương gia chơn chánh xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 10) Thế Tôn thuyết như vậy. Bậc Thiện Thệ
sau khi nói xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm: Kẻ sống buông thả này, |
5. Sujātasuttaṃ |
5.
Sujātasuttavaṇṇanā |
V. Thiện Sanh (Tạp,
Ðại 2, 276a, 374a) (S.ii,278) |
239.
Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho āyasmā sujāto yena bhagavā tenupasaṅkami.
Addasā kho bhagavā āyasmantaṃ sujātaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna
bhikkhū āmantesi – ‘‘ubhayenevāyaṃ, bhikkhave, kulaputto sobhati – yañca
abhirūpo dassanīyo pāsādiko paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato,
yassa catthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajjanti
tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja viharatī’’ti. Idamavoca bhagavā…pe… satthā –
‘‘Sobhati vatāyaṃ bhikkhu, ujubhūtena cetasā;
Vippayutto visaṃyutto, anupādāya nibbuto;
Dhāreti antimaṃ dehaṃ, jetvā māraṃ savāhini’’nti. pañcamaṃ; |
239. Pañcame
abhirūpoti aññāni rūpāni atikkantarūpo. Dassanīyoti daṭṭhabbayutto.
Pāsādikoti dassanena cittaṃ pasādetuṃ samattho. Vaṇṇapokkharatāyāti
chavivaṇṇasundaratāya. Pañcamaṃ. |
1) Trú ở Sàvatthi. 2) Rồi Tôn giả Sujàta đi đến Thế Tôn. 3) Thế Tôn thấy Tôn giả Sujàta từ đằng xa
đi đến; thấy vậy, liền gọi các Tỷ-kheo: 4) -- Cả hai phương diện, này các Tỷ-kheo,
thiện nam tử này thật sự chói sáng. Vị ấy đẹp trai, ưa nhìn, khả ái, đầy
đủ với nhan sắc tối thượng. Vị ấy còn ngay trong hiện tại tự mình chứng
tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì
mục đích này, con các lương gia chơn chánh xuất gia từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. 5) Thế Tôn nói như vậy xong... Bậc Ðạo Sư,
lại nói thêm: Tỷ-kheo này sáng chói, |
6.
Lakuṇḍakabhaddiyasuttaṃ |
6.
Lakuṇḍakabhaddiyasuttavaṇṇanā |
VI. Bhaddi (Tạp
38.2, Ố Sắc, Ðại 2, 276a, 374a) (S.ii,279) |
240.
Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho āyasmā lakuṇḍakabhaddiyo yena bhagavā
tenupasaṅkami. Addasā kho bhagavā āyasmantaṃ lakuṇḍakabhaddiyaṃ dūratova
āgacchantaṃ. Disvāna bhikkhū āmantesi – ‘‘passatha no tumhe, bhikkhave,
etaṃ bhikkhuṃ āgacchantaṃ dubbaṇṇaṃ duddasikaṃ okoṭimakaṃ bhikkhūnaṃ
paribhūtarūpa’’nti? ‘‘Evaṃ, bhante’’. ‘‘Eso kho, bhikkhave, bhikkhu
mahiddhiko mahānubhāvo, na ca sā samāpatti sulabharūpā yā tena bhikkhunā
asamāpannapubbā. Yassa catthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ
pabbajanti, tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ
abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’’ti. Idamavoca bhagavā…pe…
satthā –
‘‘Haṃsā koñcā mayūrā ca, hatthayo pasadā migā;
Sabbe sīhassa bhāyanti, natthi kāyasmiṃ tulyatā.
‘‘Evameva manussesu, daharo cepi paññavā;
So hi tattha mahā hoti, neva bālo sarīravā’’ti. chaṭṭhaṃ;
|
240. Chaṭṭhe
dubbaṇṇanti virūpasarīravaṇṇaṃ. Okoṭimakanti rassaṃ. Paribhūtarūpanti
pamāṇavasena paribhūtajātikaṃ. Taṃ kira chabbaggiyā bhikkhū, ‘‘āvuso
bhaddiya, āvuso, bhaddiyā’’ti tattha tattha parāmasitvā nānappakāraṃ
kīḷanti ākaḍḍhanti parikaḍḍhanti. Tena vuttaṃ ‘‘paribhūtarūpa’’nti.
Kasmā panesa evarūpo jāto? Ayaṃ kira atīte eko mahārājā ahosi, tassa
mahallakā ca mahallakitthiyo ca paṭikūlā honti. So sace mahallake
passati, tesaṃ cūḷaṃ ṭhapāpetvā kacchaṃ bandhāpetvā yathāruci kīḷāpeti.
Mahallakitthiyopi disvā tāsampi icchiticchitaṃ vippakāraṃ katvā
yathāruci kīḷāpeti. Tesaṃ puttadhītādīnaṃ santike mahāsārajjaṃ
uppajjati. Tassa pāpakiriyā pathavito paṭṭhāya chadevaloke ekakolāhalaṃ
akāsi.
Atha sakko cintesi – ‘‘ayaṃ andhabālo mahājanaṃ viheṭheti, karissāmissa
niggaha’’nti. So mahallakagāmiyavaṇṇaṃ katvā yānake ekaṃ takkacāṭiṃ
āropetvā yānaṃ pesento nagaraṃ pavisati. Rājāpi hatthiṃ āruyha nagarato
nikkhanto taṃ disvā – ‘‘ayaṃ mahallako takkayānakena amhākaṃ abhimukho
āgacchati, vāretha vārethā’’ti āha. Manussā ito cito ca pakkhandantāpi
na passanti. Sakko hi ‘‘rājāva maṃ passatu, mā aññe’’ti evaṃ adhiṭṭhahi.
Atha tesu manussesu ‘‘kahaṃ, deva, kahaṃ devā’’ti vadantesu eva rājā
saha hatthinā vaccho viya dhenuyā yānassa heṭṭhā pāvisi. Sakko
takkacāṭiṃ bhindi.
Rājā sīsato paṭṭhāya takkena kilinnasarīro ahosi. So sarīraṃ
ubbaṭṭāpetvā uyyānapokkharaṇiyaṃ nhatvā alaṅkatasarīro nagaraṃ pavisanto
puna taṃ addasa. Disvā ‘‘ayaṃ so amhehi diṭṭhamahallako puna dissati.
Vāretha vāretha na’’nti āha. Manussā ‘‘kahaṃ, deva, kahaṃ, devā’’ti ito
cito ca vidhāviṃsu. So paṭhamavippakārameva puna pāpuṇi. Tasmiṃ khaṇe
sakko goṇe ca yānañca antaradhāpetvā ākāse ṭhatvā āha, ‘‘andhabāla, tvaṃ
mayi takkavāṇijako eso’’ti saññaṃ karosi, sakkohaṃ devarājā, ‘‘tavetaṃ
pāpakiriyaṃ nivāressāmī’’ti āgato, ‘‘mā puna evarūpaṃ akāsī’’ti
santajjetvā agamāsi. Iminā kammena so dubbaṇṇo ahosi.
Vipassīsammāsambuddhakāle panesa cittapattakokilo nāma hutvā kheme
migadāye vasanto ekadivasaṃ himavantaṃ gantvā madhuraṃ ambaphalaṃ
tuṇḍena gahetvā āgacchanto bhikkhusaṅghaparivāraṃ satthāraṃ disvā
cintesi – ‘‘ahaṃ aññesu divasesu rittako tathāgataṃ passāmi. Ajja pana
me imaṃ ambapakkaṃ atthi, dasabalassa taṃ dassāmī’’ti otaritvā ākāse
carati. Satthā tassa cittaṃ ñatvā upaṭṭhākaṃ olokesi. So pattaṃ
nīharitvā dasabalaṃ vanditvā satthu hatthe ṭhapesi. Kokilo dasabalassa
patte ambapakkaṃ patiṭṭhāpesi. Satthā tattheva nisīditvā taṃ paribhuñji.
Kokilo pasannacitto punappunaṃ dasabalassa guṇe āvajjetvā dasabalaṃ
vanditvā attano kulāvakaṃ gantvā sattāhaṃ pītisukheneva vītināmesi.
Iminā kammena saro madhuro ahosi.
Kassapasammāsambuddhakāle pana cetiye āraddhe ‘‘kiṃpamāṇaṃ karoma?
Sattayojanappamāṇaṃ. Atimahantaṃ etaṃ, chayojanappamāṇaṃ karoma. Idampi
atimahantaṃ, pañcayojanaṃ karoma, catuyojanaṃ, tiyojanaṃ,
dviyojana’’nti. Ayaṃ tadā jeṭṭhakavaḍḍhakī hutvā, ‘‘evaṃ, bho, anāgate
sukhapaṭijaggitaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vatvā rajjuṃ ādāya parikkhipanto
gāvutamattake ṭhatvā, ‘‘ekekaṃ mukhaṃ gāvutaṃ hotu, cetiyaṃ yojanāvaṭṭaṃ
yojanubbedhaṃ bhavissatī’’ti āha. Te tassa vacane aṭṭhaṃsu. Cetiyaṃ
sattadivasasattamāsādhikehi sattahi saṃvaccharehi niṭṭhitaṃ. Iti
appamāṇassa buddhassa pamāṇaṃ akāsīti. Tena kammena okoṭimako jāto.
Hatthayo pasadā migāti hatthino ca pasadamigā ca. Natthi kāyasmiṃ
tulyatāti kāyasmiṃ pamāṇaṃ nāma natthi, akāraṇaṃ kāyapamāṇanti attho.
Chaṭṭhaṃ. |
1) ... Trú ở Sàvatthi. 2) Rồi Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya đi đến
Thế Tôn. 3) Thế Tôn thấy Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya
từ xa đi đến; sau khi thấy, liền gọi các Tỷ-kheo: 4) -- Các Ông có thấy không, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kia đang đi đến, xấu xí, khó nhìn, còm lưng, bị các
Tỷ-kheo khinh miệt? -- Thưa có, bạch Thế Tôn. 5) -- Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, có đại
thần thông, có đại uy lực. Thật không dễ gì đạt được chứng đắc mà trước
kia vị Tỷ-kheo ấy chưa chứng đắc. Và cả đến mục đích mà con một lương
gia xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tức vị ấy còn tự
mình, ngay trong hiện tại, chứng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô
thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì mục đích này, con các lương gia xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 6) Thế Tôn thuyết như vậy, Bậc Thiện Thệ
nói xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm: Thiên nga, cò, chim, công, |
7. Visākhasuttaṃ |
7.
Visākhasuttavaṇṇanā |
VII. Visàkha (Tạp,
38.8, Ban Xà Văn, Ðại 2, 277b,377c) (S.ii,280) |
241. Evaṃ me
sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane
kūṭāgārasālāyaṃ. Tena kho pana samayena āyasmā visākho pañcālaputto
upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhū dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti
samuttejeti sampahaṃseti, poriyā vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa
viññāpaniyā pariyāpannāya anissitāya.
Atha kho bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena upaṭṭhānasālā
tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho bhagavā
bhikkhū āmantesi – ‘‘ko nu kho, bhikkhave, upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhū
dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti poriyā
vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya
anissitāyā’’ti? ‘‘Āyasmā, bhante, visākho pañcālaputto upaṭṭhānasālāyaṃ
bhikkhū dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti,
poriyā vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya
anissitāyā’’ti.
Atha kho bhagavā āyasmantaṃ visākhaṃ pañcālaputtaṃ āmantesi – ‘‘sādhu
sādhu, visākha, sādhu kho tvaṃ, visākha, bhikkhū dhammiyā kathāya
sandassesi…pe… atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya anissitāyā’’ti.
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Nābhāsamānaṃ jānanti, missaṃ bālehi paṇḍitaṃ;
Bhāsamānañca jānanti, desentaṃ amataṃ padaṃ.
‘‘Bhāsaye jotaye dhammaṃ, paggaṇhe isinaṃ dhajaṃ;
Subhāsitadhajā isayo, dhammo hi isinaṃ dhajo’’ti. sattamaṃ; |
241. Sattame
poriyā vācāyāti puravāsīnaṃ nagaramanussānaṃ vācāsadisāya
aparihīnakkharapadāya madhuravācāya. Vissaṭṭhāyāti asandiddhāya
apalibuddhāya, pittasemhehi anupahatāyāti attho. Anelagalāyāti yathā
dandhamanussā mukhena kheḷaṃ gaḷantena vācaṃ bhāsanti, na evarūpāya,
atha kho niddosāya visadavācāya. Pariyāpannāyāti catusaccapariyāpannāya
cattāri saccāni amuñcitvā pavattāya. Anissitāyāti vaṭṭanissitaṃ katvā
akathitāya. Dhammo hi isinaṃ dhajoti navavidhalokuttaradhammo isīnaṃ
dhajo nāmāti. Sattamaṃ. |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Vesàli (Tỳ-xá-ly), tại
Mahàvana (Ðại Lâm) chỗ Trùng Các giảng đường. 2) Lúc bấy giờ Tôn giả Visàkha, thuộc dòng
họ Pancàla, trong giảng đường đang thuyết pháp thoại cho các Tỷ-kheo,
khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, với những lời lễ độ, thân
hữu, không phun nước miếng, giải thích nghĩa lý, thích hợp, không chấp
trước. 3) Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ chỗ tịnh
cư đứng dậy, đi đến giảng đường; sau khi đến, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. 4) Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: -- Này các Tỷ-kheo, trong hội trường, ai đã
thuyết giảng pháp thoại cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi,
làm cho hoan hỷ, với những lời lễ độ, thân hữu, không phun nước miếng,
giải thích nghĩa lý, thích hợp, không chấp trước? 5) -- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Visàkha thuộc
dòng họ Pancàla, trong hội trường thuyết giảng pháp thoại cho các
Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, với những lời lễ
độ, thân hữu, không phun nước miếng, giải thích nghĩa lý, thích hợp,
không chấp trước. 6) Rồi Thế Tôn cho gọi Tôn giả Visàkha,
thuộc dòng họ Pancàla và nói: -- Lành thay, lành thay, Visàkha! Lành
thay, này Visàkha! Ông thuyết pháp thoại cho các Tỷ-kheo, khích lệ làm
cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ... không chấp trước. 7) Thế Tôn thuyết như vậy, bậc Thiện Thệ
thuyết như vậy, bậc Ðạo Sư lại nói thêm: Họ biết bậc Hiền triết, |
8. Nandasuttaṃ |
8.
Nandasuttavaṇṇanā |
VIII. Nanda (Ðại,
2, 277a, 375a) (S.ii,281) |
242.
Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho āyasmā nando bhagavato mātucchāputto
ākoṭitapaccākoṭitāni cīvarāni pārupitvā akkhīni añjetvā acchaṃ pattaṃ
gahetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ
abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ nandaṃ
bhagavā etadavoca – ‘‘na kho te taṃ, nanda, patirūpaṃ kulaputtassa
saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitassa, yaṃ tvaṃ ākoṭitapaccākoṭitāni
cīvarāni pārupeyyāsi, akkhīni ca añjeyyāsi, acchañca pattaṃ dhāreyyāsi.
Etaṃ kho te, nanda, patirūpaṃ kulaputtassa saddhā agārasmā anagāriyaṃ
pabbajitassa, yaṃ tvaṃ āraññiko ca assasi, piṇḍapātiko ca paṃsukuliko ca
kāmesu ca anapekkho vihareyyāsī’’ti. Idamavoca bhagavā…pe… satthā –
‘‘Kadāhaṃ nandaṃ passeyyaṃ, āraññaṃ paṃsukūlikaṃ;
Aññātuñchena yāpentaṃ, kāmesu anapekkhina’’nti.
Atha kho āyasmā nando aparena samayena āraññiko ca piṇḍapātiko ca
paṃsukūliko ca kāmesu ca anapekkho vihāsīti. Aṭṭhamaṃ. |
242. Aṭṭhame
ākoṭitapaccākoṭitānīti ekasmiṃ passe pāṇinā vā muggarena vā ākoṭanena
ākoṭitāni, parivattetvā ākoṭanena paccākoṭitāni. Añjetvāti añjanena
pūretvā. Acchaṃ pattanti vippasannavaṇṇaṃ mattikāpattaṃ. Kasmā pana
thero evamakāsīti? Satthu ajjhāsayajānanatthaṃ. Evaṃ kirassa ahosi
‘‘sace satthā ‘sobhati vata me ayaṃ kaniṭṭhabhātiko’ti vakkhati,
yāvajīvaṃ iminā vākārena carissāmi. Sace ettha dosaṃ dassati, imaṃ
ākāraṃ pahāya saṅkāracoḷaṃ gahetvā cīvaraṃ katvā dhārento
pariyantasenāsane vasanto carissāmī’’ti. Assasīti bhavissasi.
Aññātuñchenāti abhilakkhitesu issarajanagehesu kaṭukabhaṇḍasambhāraṃ
sugandhaṃ bhojanaṃ pariyesantassa uñcho ñātuñcho nāma. Gharapaṭipāṭiyā
pana dvāre ṭhitena laddhaṃ missakabhojanaṃ aññātuñcho nāma. Ayamidha
adhippeto. Kāmesu anapekkhinanti vatthukāmakilesakāmesu nirapekkhaṃ.
Āraññiko cātiādi sabbaṃ samādānavaseneva vuttaṃ. Kāmesu ca anapekkhoti
idaṃ suttaṃ devaloke accharāyo dassetvā āgatena aparabhāge kathitaṃ.
Imassa kathitadivasato paṭṭhāya thero ghaṭento vāyamanto katipāheneva
arahatte patiṭṭhāya sadevake loke aggadakkhiṇeyyo jāto. Aṭṭhamaṃ. |
1) Trú ở Sàvatthi. 2) Rồi Tôn giả Nanda, con di mẫu của Phật,
đắp những y khéo ủi, khéo là, bôi vẽ mắt, cầm bát sáng chói, đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Nanda đang ngồi
xuống một bên: 3) -- Như vậy không xứng đáng cho Ông, này
Nanda, là con một lương gia, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, lại mang những y khéo ủi, khéo là, bôi vẽ con mắt và
mang bát sáng chói. Như vậy là xứng đáng cho Ông, này Nanda, là con một
lương gia, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
tức là sống trong rừng, sống đi khất thực, sống mặc áo phấn tảo, và sống
không mong đợi các dục vọng. 4) Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Bậc Thiện
Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm: Ta mong được nhìn thấy, 5) Rồi Tôn giả Nanda, sau một thời gian,
trở thành một vị sống trong rừng, ăn đồ ăn khất thực, mang y phấn tảo,
không mong đợi các dục vọng. |
9. Tissasuttaṃ |
9.
Tissasuttavaṇṇanā |
IX. Tissa (Tạp
38.7, Oa? Sư, Ðại 2,277b, 375b. (S.ii,281) |
243.
Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho āyasmā tisso bhagavato pitucchāputto yena
bhagavā tenupasaṅkami ; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ
nisīdi dukkhī dummano assūni pavattayamāno. Atha kho bhagavā āyasmantaṃ
tissaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho tvaṃ, tissa, ekamantaṃ nisinno dukkhī
dummano assūni pavattayamāno’’ti? ‘‘Tathā hi pana maṃ, bhante, bhikkhū
samantā vācāsannitodakena [vācāya sannitodakena (ka.)]
sañjambharimakaṃsū’’ti [sañjabbharimakaṃsūti (?)]. ‘‘Tathāhi pana tvaṃ,
tissa, vattā no ca vacanakkhamo; na kho te taṃ, tissa, patirūpaṃ
kulaputtassa saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitassa, yaṃ tvaṃ vattā no
ca vacanakkhamo. Etaṃ kho te, tissa, patirūpaṃ kulaputtassa saddhā
agārasmā anagāriyaṃ pabbajitassa – ‘yaṃ tvaṃ vattā ca assa vacanakkhamo
cā’’’ti.
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Kiṃ nu kujjhasi mā kujjhi, akkodho tissa te varaṃ;
Kodhamānamakkhavinayatthañhi, tissa brahmacariyaṃ vussatī’’ti. navamaṃ; |
243. Navame
dummanoti uppannadomanasso. Kasmā panāyaṃ evaṃ dukkhī dummano jātoti?
Khattiyapabbajito hesa, tena naṃ pabbājetvā dupaṭṭasāṭakaṃ nivāsāpetvā
varacīvaraṃ pārupetvā akkhīni añjetvā manosilātelena sīsaṃ makkhesuṃ. So
bhikkhūsu rattiṭṭhānadivāṭṭhānaṃ gatesu ‘‘bhikkhunā nāma vivittokāse
nisīditabba’’nti ajānanto bhojanasālaṃ gantvā mahāpīṭhaṃ āruhitvā
nisīdi. Disāvacarā āgantukā paṃsukūlikā bhikkhū āgantvā, ‘‘imināva
nīhārena rajokiṇṇehi gattehi na sakkā dasabalaṃ passituṃ. Bhaṇḍakaṃ tāva
ṭhapessāmā’’ti bhojanasālaṃ agamaṃsu. So tesu mahātheresu āgacchantesu
niccalo nisīdiyeva. Aññe bhikkhū ‘‘pādavattaṃ karoma, tālavaṇṭena
bījāmā’’ti āpucchanti. Ayaṃ pana nisinnakova ‘‘kativassatthā’’ti?
Pucchitvā, ‘‘mayaṃ avassikā. Tumhe pana kativassatthā’’ti? Vutte,
‘‘mayaṃ ajja pabbajitā’’ti āha. Atha naṃ bhikkhū, ‘‘āvuso, adhunā
chinnacūḷosi, ajjāpi te sīsamūle ūkāgandho vāyatiyeva, tvaṃ nāma
ettakesu vuḍḍhataresu vattaṃ āpucchantesu nissaddo niccalo nisinno,
apacitimattampi te natthi, kassa sāsane pabbajitosī’’ti? Parivāretvā taṃ
vācāsattīhi paharantā ‘‘kiṃ tvaṃ iṇaṭṭo vā bhayaṭṭo vā jīvituṃ asakkonto
pabbajito’’ti? Āhaṃsu. So ekampi theraṃ olokesi, tena ‘‘kiṃ maṃ olokesi
mahallakā’’ti? Vutte aññaṃ olokesi, tenapi tatheva vutte athassa ‘‘ime
maṃ parivāretvā vācāsattīhi vijjhantī’’ti khattiyamāno uppajji. Akkhīsu
maṇivaṇṇāni assūni sañcariṃsu. Tato ne āha – ‘‘kassa santikaṃ
āgatatthā’’ti. Te ‘‘kiṃ pana tvaṃ ‘mayhaṃ santikaṃ āgatā’ti? Amhe
maññasi gihibyañjanabhaṭṭhakā’’ti vatvā, ‘‘sadevake loke aggapuggalassa
satthu santikaṃ āgatamhā’’ti āhaṃsu. So ‘‘mayhaṃ bhātu santike āgatā
tumhe, yadi evaṃ idāni vo āgatamaggeneva gamanaṃ karissāmī’’ti kujjhitvā
nikkhanto antarāmagge cintesi – ‘‘mayi imināva nīhārena gate satthā ete
na nīharāpessatī’’ti dukkhī dummano assūni pavattayamāno agamāsi. Iminā
kāraṇena esa evaṃ jātoti.
Vācāsannitodakenāti vacanapatodena. Sañjambharimakaṃsūti sañjambharitaṃ
nirantaraṃ phuṭaṃ akaṃsu, upari vijjhiṃsūti vuttaṃ hoti. Vattāti pare
yadicchakaṃ vadatiyeva. No ca vacanakkhamoti paresaṃ vacanaṃ khamituṃ na
sakkoti. Idāni tāva tvaṃ iminā kopena iminā vuttavācāsannitodakena
viddho. Atīte pana raṭṭhato ca pabbājitoti. Evaṃ vutte, ‘‘katarasmiṃ
kāle bhagavā’’ti? Bhikkhū bhagavantaṃ yāciṃsu.
Satthā āha – atīte bārāṇasiyaṃ bārāṇasirājā rajjaṃ kāresi. Atheko
jātimā, eko mātaṅgoti dve isayo bārāṇasiṃ agamaṃsu. Tesu jātimā
puretaraṃ gantvā kumbhakārasālāyaṃ nisīdi. Mātaṅgo tāpaso pacchā gantvā
tattha okāsaṃ yāci kumbhakāro ‘‘atthettha paṭhamataraṃ paviṭṭho
pabbajito, taṃ pucchā’’ti āha. So attano parikkhāraṃ gahetvā sālāya
dvāramūle ṭhatvā, ‘‘amhākampi ācariya ekarattivāsāya okāsaṃ dethā’’ti
āha. ‘‘Pavisa, bho’’ti. Pavisitvā nisinnaṃ, ‘‘bho, kiṃ gottosī’’ti?
Pucchi. ‘‘Caṇḍālagottomhī’’ti. ‘‘Na sakkā tayā saddhiṃ ekaṭṭhāne
nisīdituṃ, ekamantaṃ gacchā’’ti. So ca tattheva tiṇasanthārakaṃ
pattharitvā nipajji, jātimā dvāraṃ nissāya nipajji. Itaro passāvatthāya
nikkhamanto taṃ urasmiṃ akkami. ‘‘Ko eso’’ti ca vutte? ‘‘Ahaṃ
ācariyā’’ti āha. ‘‘Re caṇḍāla, kiṃ aññato maggaṃ na passasi? Atha me
āgantvā akkamasī’’ti. ‘‘Ācariya, adisvā me akkantosi, khama mayha’’nti.
So mahāpurise bahi nikkhante cintesi – ‘‘ayaṃ paccāgacchantopi itova
āgamissatī’’ti parivattetvā nipajji. Mahāpurisopi ‘‘ācariyo ito sīsaṃ
katvā nipanno, pādasamīpena gamissāmī’’ti pavisanto puna urasmiṃyeva
akkami. ‘‘Ko eso’’ti ca vutte? ‘‘Ahaṃ ācariyā’’ti āha. ‘‘Paṭhamaṃ tāva
te ajānantena kataṃ, idāni maṃ ghaṭentova akāsi, sūriye te uggacchante
sattadhā muddhā phalatū’’ti sapi. Mahāpuriso kiñci avatvā purearuṇeyeva
sūriyaṃ gaṇhi, nāssa uggantuṃ adāsi. Manussā ca hatthiassādayo ca
pabujjhiṃsu.
Manussā rājakulaṃ gantvā, ‘‘deva, sakalanagare appabuddho nāma natthi,
na ca aruṇuggaṃ paññāyati, kinnu kho eta’’nti? Tena hi nagaraṃ
parivīmaṃsathāti. Te parivīmaṃsantā kumbhakārasālāyaṃ dve tāpase disvā,
‘‘imesaṃ etaṃ kammaṃ bhavissatī’’ti gantvā rañño ārocesuṃ. Raññā ca
‘‘pucchatha ne’’ti vuttā āgantvā jātimantaṃ pucchiṃsu – ‘‘tumhehi
andhakāraṃ kata’’nti. ‘‘Na mayā kataṃ, esa pana kūṭajaṭilo chavo
anantamāyo, taṃ pucchathā’’ti. Te āgantvā mahāpurisaṃ pucchiṃsu –
‘‘tumhehi, bhante, andhakāraṃ kata’’nti. ‘‘Āma ayaṃ ācariyo maṃ
abhisapi, tasmā mayā kata’’nti. Te gantvā rañño ārocesuṃ. Rājāpi āgantvā
mahāpurisaṃ ‘‘tumhehi kataṃ, bhante’’ti? Pucchi. ‘‘Āma, mahārājā’’ti.
‘‘Kasmā bhante’’ti? ‘‘Iminā abhisapitomhi, sace maṃ eso khamāpessati,
sūriyaṃ vissajjessāmī’’ti. Rājā ‘‘khamāpetha, bhante, eta’’nti āha.
Itaro ‘‘mādiso jātimā kiṃ evarūpaṃ caṇḍālaṃ khamāpessati? Na
khamāpemī’’ti.
Atha naṃ manussā ‘‘na kiṃ tvaṃ attano ruciyā khamāpessasī’’ti? Vatvā
hatthesu ca pādesu ca gahetvā pādamūle nipajjāpetvā ‘‘khamāpehī’’ti
āhaṃsu. So nissaddo nipajji. Punapi naṃ ‘‘khamāpehī’’ti āhaṃsu. Tato
‘‘khama mayhaṃ, ācariyā’’ti āha. Mahāpuriso ‘‘ahaṃ tāva tuyhaṃ khamitvā
sūriyaṃ vissajjessāmi, sūriye pana uggate tava sīsaṃ sattadhā
phalissatī’’ti vatvā, ‘‘imassa sīsappamāṇaṃ mattikāpiṇḍaṃ matthake
ṭhapetvā etaṃ nadiyā galappamāṇe udake ṭhapethā’’ti āha. Manussā tathā
akaṃsu. Ettāvatā saraṭṭhakaṃ rājabalaṃ sannipati. Mahāpuriso sūriyaṃ
muñci. Sūriyarasmi āgantvā mattikāpiṇḍaṃ pahari. So sattadhā bhijji.
Tāvadeva so nimujjitvā ekena titthena uttaritvā palāyi. Satthā imaṃ
vatthuṃ āharitvā, ‘‘idāni tāva tvaṃ bhikkhūnaṃ santike paribhāsaṃ
labhasi, pubbepi imaṃ kodhaṃ nissāya raṭṭhato pabbājito’’ti anusandhiṃ
ghaṭetvā atha naṃ ovadanto na kho te taṃ tissa patirūpantiādimāha.
Navamaṃ. |
1) ... Trú ở Sàvatthi. 2) Rồi Tôn giả Tissa, cháu của phụ vương
Thế Tôn đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên, khổ
đau, sầu muộn, nước mắt tuôn chảy. 3) Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Tissa: -- Này Tissa, vì sao Ông ngồi khổ đau, sầu
muộn, nước mắt tuôn chảy? 4) -- Vì rằng, bạch Thế Tôn, các vị Tỷ-kheo
nhất loạt mắng nhiếc và nhạo báng con. 5) -- Vì rằng, này Tissa, Ông nói tất cả và
không kham nhẫn người khác nói. 6) Như vậy không xứng đáng cho Ông, này
Tissa, là con một lương gia, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, lại nói tất cả và không kham nhẫn người khác nói. Như
vậy là xứng đáng cho Ông, này Tissa, là con một lương gia, vì lòng tin
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, tức là đã nói lời kham
nhẫn người khác nói. 7) Thế Tôn nói như vậy. Thiện Thệ nói như
vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm: Sao Ông lại phẫn nộ? |
10.
Theranāmakasuttaṃ |
10.
Theranāmakasuttavaṇṇanā |
X. Tên Trưởng Lão
(Tạp 38.19, Trưởng Lão, Ðại 2, 278a, 376b) (S.ii,282) |
244. Ekaṃ
samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho
pana samayena aññataro bhikkhu theranāmako ekavihārī ceva hoti
ekavihārassa ca vaṇṇavādī. So eko gāmaṃ piṇḍāya pavisati eko paṭikkamati
eko raho nisīdati eko caṅkamaṃ adhiṭṭhāti. Atha kho sambahulā bhikkhū
yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu ; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā
ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ
etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, aññataro bhikkhu theranāmako ekavihārī
ekavihārassa ca vaṇṇavādī’’ti.
Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama
vacanena theraṃ bhikkhuṃ āmantehi – ‘satthā taṃ, āvuso thera,
āmantetī’’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā
yenāyasmā thero tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ theraṃ etadavoca
– ‘‘satthā taṃ, āvuso thera, āmantetī’’ti. ‘‘Evamāvuso’’ti kho āyasmā
thero tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ
nisinnaṃ kho āyasmantaṃ theraṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tvaṃ,
thera, ekavihārī ekavihārassa ca vaṇṇavādī’’ti? ‘‘Evaṃ, bhante’’.
‘‘Yathā kathaṃ pana tvaṃ, thera, ekavihārī ekavihārassa ca
vaṇṇavādī’’ti? ‘‘Idhāhaṃ, bhante, eko gāmaṃ piṇḍāya pavisāmi eko
paṭikkamāmi eko raho nisīdāmi eko caṅkamaṃ adhiṭṭhāmi. Evaṃ khvāhaṃ,
bhante, ekavihārī ekavihārassa ca vaṇṇavādī’’ti.
‘‘Attheso, thera, ekavihāro neso natthīti vadāmi. Api ca, thera, yathā
ekavihāro vitthārena paripuṇṇo hoti taṃ suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi;
bhāsissāmī’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho…pe…. ‘‘Kathañca , thera,
ekavihāro vitthārena paripuṇṇo hoti. Idha, thera, yaṃ atītaṃ taṃ
pahīnaṃ, yaṃ anāgataṃ taṃ paṭinissaṭṭhaṃ, paccuppannesu ca
attabhāvapaṭilābhesu chandarāgo suppaṭivinīto. Evaṃ kho, thera,
ekavihāro vitthārena paripuṇṇo hotī’’ti.
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Sabbābhibhuṃ sabbaviduṃ sumedhaṃ,
Sabbesu dhammesu anūpalittaṃ;
Sabbañjahaṃ taṇhākkhaye vimuttaṃ,
Tamahaṃ naraṃ ekavihārīti brūmī’’ti. dasamaṃ;
|
244. Dasame
vaṇṇavādīti ānisaṃsavādī. Yaṃ atītaṃ taṃ pahīnanti atīte khandhapañcake
chandarāgappahānena taṃ pahīnaṃ nāma hoti. Anāgatanti anāgatampi
khandhapañcakaṃ tattha chandarāgapaṭinissaggena paṭinissaṭṭhaṃ nāma hoti
. Sabbābhibhunti sabbā khandhāyatanadhātuyo ca tayo bhave ca
abhibhavitvā ṭhitaṃ. Sabbavidunti taṃ vuttappakāraṃ sabbaṃ viditaṃ
pākaṭaṃ katvā ṭhitaṃ. Sabbesu dhammesūti tesveva dhammesu
taṇhādiṭṭhilepehi anupalittaṃ. Sabbañjahanti tadeva sabbaṃ tattha
chandarāgappahānena jahitvā ṭhitaṃ. Taṇhakkhaye vimuttanti
taṇhakkhayasaṅkhāte nibbāne tadārammaṇāya vimuttiyā vimuttaṃ. Dasamaṃ. |
1) Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương
Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Lúc bấy giờ một Tỷ-kheo tên là
Theranàmaka sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú. Vị ấy đi vào
làng khất thực một mình, đi về một mình, ngồi vắng lặng một mình, đi
kinh hành một mình. 3) Rồi các Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 4) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn: -- Ở đây, bạch Thế Tôn, có Tỷ-kheo tên là
Theranàmaka sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú... đi kinh hành
một mình. 5) Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo: -- Này Tỷ-kheo, hãy đến, hãy nhân danh Ta
gọi Tỷ-kheo Thera: "Này Hiền giả Thera, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả". -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn rồi đi đến
Tỷ-kheo Thera. 6) Sau khi đến, Tỷ-kheo ấy nói với Tỷ-kheo
Thera: -- Này Hiền giả Thera, bậc Ðạo Sư gọi Hiền
giả. -- Thưa vâng, Hiền giả. Tôn giả Thera vâng đáp Tỷ-kheo ấy và đi đến
Thế Tôn. 7) Sau khi đến, vị ấy đảnh lễ Thế Tôn và
ngồi xuống một bên. 8) Thế Tôn nói với Tôn giả Thera đang ngồi
một bên: -- Có thật chăng, này Thera, Ông sống độc
trú và tán thán hạnh độc trú? -- Thưa có, bạch Thế Tôn. 9) -- Như thế nào, này Thera, Ông sống độc
trú và tán thán hạnh sống độc trú? 10) -- Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi vào làng
khất thực một mình, con đi về một mình, con ngồi vắng lặng một mình, con
đi kinh hành một mình. Như vậy, bạch Thế Tôn, con sống độc trú và tán
thán hạnh sống độc trú. 11) -- Ðấy là sống độc trú, này Thera, Ta
không nói đấy không phải vậy. Này Thera, có một cách làm viên mãn độc
trú với các chi tiết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói. -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. 12) -- Này Thera, thế nào là độc trú được
làm viên mãn với các chi tiết? Ở đây, này Thera, cái gì đã qua được đoạn
tận; cái gì sắp đến được từ bỏ; đối với những tự ngã, lợi đắc hiện tại,
dục tham được khéo nhiếp phục. Như vậy, này Thera, là độc trú được làm
viên mãn với các chi tiết. 13) Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Thiện Thệ
nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm: Ai chiến thắng tất cả, |
11.
Mahākappinasuttaṃ |
11.
Mahākappinasuttavaṇṇanā |
XI. Kappina
(S.ii,284) |
245.
Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho āyasmā mahākappino yena bhagavā
tenupasaṅkami. Addasā kho bhagavā āyasmantaṃ mahākappinaṃ dūratova
āgacchantaṃ. Disvāna bhikkhū āmantesi – ‘‘passatha no tumhe bhikkhave,
etaṃ bhikkhuṃ āgacchantaṃ odātakaṃ tanukaṃ tuṅganāsika’’nti? ‘‘Evaṃ,
bhante’’. ‘‘Eso kho, bhikkhave, bhikkhu mahiddhiko mahānubhāvo. Na ca sā
samāpatti sulabharūpā yā tena bhikkhunā asamāpannapubbā. Yassa catthāya
kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ
brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja viharatī’’ti.
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Khattiyo seṭṭho janetasmiṃ, ye gottapaṭisārino;
Vijjācaraṇasampanno, so seṭṭho devamānuse.
‘‘Divā tapati ādicco, rattimābhāti candimā;
Sannaddho khattiyo tapati, jhāyī tapati brāhmaṇo;
Atha sabbamahorattiṃ [atha sabbamahorattaṃ (sī. syā. kaṃ.)], buddho
tapati tejasā’’ti. ekādasamaṃ; |
245. Ekādasame
mahākappinoti evaṃnāmako abhiññābalappatto asītimahāsāvakānaṃ abbhantaro
mahāthero. So kira gihikāle kukkuṭavatīnagare tiyojanasatikaṃ rajjaṃ
akāsi. Pacchimabhavikattā pana tathārūpaṃ sāsanaṃ sotuṃ ohitasoto
vicarati. Athekadivasaṃ amaccasahassaparivuto uyyānakīḷikaṃ agamāsi.
Tadā ca majjhimadesato jaṅghavāṇijā taṃ nagaraṃ gantvā, bhaṇḍaṃ
paṭisāmetvā, ‘‘rājānaṃ passissāmā’’ti paṇṇākārahatthā rājakuladvāraṃ
gantvā, ‘‘rājā uyyānaṃ gato’’ti sutvā, uyyānaṃ gantvā, dvāre ṭhitā,
paṭihārassa ārocayiṃsu. Atha rañño nivedite rājā pakkosāpetvā
niyyātitapaṇṇākāre vanditvā ṭhite, ‘‘tātā, kuto āgatatthā’’ti? Pucchi.
‘‘Sāvatthito devā’’ti. ‘‘Kacci vo raṭṭhaṃ subhikkhaṃ, dhammiko rājā’’ti?
‘‘Āma, devā’’ti. ‘‘Atthi pana tumhākaṃ dese kiñci sāsana’’nti? ‘‘Atthi,
deva, na pana sakkā ucchiṭṭhamukhehi kathetu’’nti. Rājā
suvaṇṇabhiṅgārena udakaṃ dāpesi. Te mukhaṃ vikkhāletvā dasabalābhimukhā
añjaliṃ paggaṇhitvā, ‘‘deva, amhākaṃ dese buddharatanaṃ nāma
uppanna’’nti āhaṃsu. Rañño ‘‘buddho’’ti vacane sutamatte sakalasarīraṃ
pharamānā pīti uppajji. Tato ‘‘buddhoti, tātā, vadathā’’ti? Āha.
‘‘Buddhoti deva vadāmā’’ti. Evaṃ tikkhattuṃ vadāpetvā, ‘‘buddhoti padaṃ
aparimāṇaṃ, nāssa sakkā parimāṇaṃ kātu’’nti tasmiṃyeva pasanno
satasahassaṃ datvā puna ‘‘aññaṃ kiṃ sāsana’’nti? Pucchi. ‘‘Deva
dhammaratanaṃ nāma uppanna’’nti. Tampi sutvā tatheva tikkhattuṃ paṭiññaṃ
gahetvā aparampi satasahassaṃ datvā puna ‘‘aññaṃ kiṃ sāsana’’nti?
Pucchi. ‘‘Saṅgharatanaṃ deva uppanna’’nti. Tampi sutvā tatheva
tikkhattuṃ paṭiññaṃ gahetvā aparampi satasahassaṃ datvā dinnabhāvaṃ
paṇṇe likhitvā, ‘‘tātā, deviyā santikaṃ gacchathā’’ti pesesi. Tesu
gatesu amacce pucchi, ‘‘tātā, buddho loke uppanno, tumhe kiṃ
karissathā’’ti? ‘‘Deva tumhe kiṃ kattukāmā’’ti? ‘‘Ahaṃ pabbajissāmī’’ti.
‘‘Mayampi pabbajissāmā’’ti. Te sabbepi gharaṃ vā kuṭumbaṃ vā
anapaloketvā ye asse āruyha gatā, teheva nikkhamiṃsu.
Vāṇijā anojādeviyā santikaṃ gantvā paṇṇaṃ dassesuṃ. Sā vācetvā ‘‘raññā
tumhākaṃ bahū kahāpaṇā dinnā, kiṃ tumhehi kataṃ, tātā’’ti? Pucchi.
‘‘Piyasāsanaṃ devi ānīta’’nti. ‘‘Amhepi sakkā, tātā, suṇāpetu’’nti.
‘‘Sakkā devi, ucchiṭṭhamukhehi pana vattuṃ na sakkā’’ti. Sā
suvaṇṇabhiṅgārena udakaṃ dāpesi. Te mukhaṃ vikkhāletvā rañño
ārocitanayeneva ārocesuṃ. Sāpi sutvā uppannapāmojjā teneva nayena
ekekasmiṃ pade tikkhattuṃ paṭiññaṃ gahetvā paṭiññāgaṇanāya tīṇi tīṇi
katvā navasatasahassāni adāsi. Vāṇijā sabbānipi dvādasasatasahassāni
labhiṃsu. Atha ne ‘‘rājā kahaṃ, tātā’’ti, pucchi. ‘‘Pabbajissāmīti
nikkhanto devī’’ti. ‘‘Tena hi, tātā, tumhe gacchathā’’ti te uyyojetvā
raññā saddhiṃ gatānaṃ amaccānaṃ mātugāme pakkosāpetvā, ‘‘tumhe attano
sāmikānaṃ gataṭṭhānaṃ jānātha ammā’’ti pucchi. ‘‘Jānāma ayye, raññā
saddhiṃ uyyānakīḷikaṃ gatā’’ti. Āma gatā, tattha pana gantvā, ‘‘buddho
uppanno, dhammo uppanno, saṅgho uppanno’’ti sutvā, ‘‘dasabalassa santike
pabbajissāmā’’ti gatā. ‘‘Tumhe kiṃ karissathā’’ti? ‘‘Tumhe pana ayye kiṃ
kattukāmā’’ti? ‘‘Ahaṃ pabbajissāmi, na tehi vantavamanaṃ jivhagge
ṭhapeyya’’nti. ‘‘Yadi evaṃ, mayampi pabbajissāmā’’ti sabbā rathe
yojāpetvā nikkhamiṃsu.
Rājāpi amaccasahassena saddhiṃ gaṅgāya tīraṃ pāpuṇi. Tasmiñca samaye
gaṅgā pūrā hoti. Atha naṃ disvā, ‘‘ayaṃ gaṅgā pūrā caṇḍamacchākiṇṇā,
amhehi saddhiṃ āgatā dāsā vā manussā vā natthi, ye no nāvaṃ vā uḷumpaṃ
vā katvā dadeyyuṃ, etassa pana satthu guṇā nāma heṭṭhā avīcito upari
yāva bhavaggā patthaṭā, sace esa satthā sammāsambuddho, imesaṃ assānaṃ
khurapiṭṭhāni mā tementū’’ti udakapiṭṭhena asse pakkhandāpesuṃ .
Ekaassassāpi khurapiṭṭhamattaṃ na temi, rājamaggena gacchantā viya
paratīraṃ patvā purato aññaṃ mahānadiṃ pāpuṇiṃsu. Tattha aññā
saccakiriyā natthi, tāya eva saccakiriyāya tampi aḍḍhayojanavitthāraṃ
nadiṃ atikkamiṃsu. Atha tatiyaṃ candabhāgaṃ nāma mahānadiṃ patvā tampi
tāya eva saccakiriyāya atikkamiṃsu.
Satthāpi taṃdivasaṃ paccūsasamaye mahākaruṇāsamāpattito vuṭṭhāya lokaṃ
olokento ‘‘ajja mahākappino tiyojanasatikaṃ rajjaṃ pahāya
amaccasahassaparivāro mama santike pabbajituṃ āgacchatī’’ti disvā,
‘‘mayā tesaṃ paccuggamanaṃ kātuṃ yutta’’nti pātova sarīrapaṭijagganaṃ
katvā, bhikkhusaṅghaparivāro sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā, pacchābhattaṃ
piṇḍapātapaṭikkanto sayameva pattacīvaraṃ gahetvā, ākāse uppatitvā
candabhāgāya nadiyā tīre tesaṃ uttaraṇatitthassa abhimukhe ṭhāne
mahānigrodharukkho atthi, tattha pallaṅkena nisīditvā parimukhaṃ satiṃ
upaṭṭhapetvā chabbaṇṇabuddharasmiyo vissajjesi. Te tena titthena
uttarantā ca chabbaṇṇabuddharasmiyo ito cito ca vidhāvantiyo olokentā
dasabalassa puṇṇacandasassirikaṃ mukhaṃ disvā, ‘‘yaṃ satthāraṃ uddissa
mayaṃ pabbajitā, addhā so eso’’ti dassaneneva niṭṭhaṃ gantvā
diṭṭhaṭṭhānato paṭṭhāya onatā vandamānā āgamma satthāraṃ vandiṃsu. Rājā
gopphakesu gahetvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi saddhiṃ
amaccasahassena. Satthā tesaṃ dhammaṃ kathesi. Desanāpariyosāne sabbe
arahatte patiṭṭhāya satthāraṃ pabbajjaṃ yāciṃsu. Satthā ‘‘pubbe ime
cīvaradānassa dinnattā attano cīvarāni gahetvāva āgatā’’ti suvaṇṇavaṇṇaṃ
hatthaṃ pasāretvā, ‘‘etha bhikkhavo svākkhāto dhammo, caratha
brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāyā’’ti āha. Sāva tesaṃ
āyasmantānaṃ pabbajjā ca upasampadā ca ahosi, vassasaṭṭhikattherā viya
satthāraṃ parivārayiṃsu.
Anojāpi devī rathasahassaparivārā gaṅgātīraṃ patvā rañño atthāya ābhataṃ
nāvaṃ vā uḷumpaṃ vā adisvā attano byattatāya cintesi – ‘‘rājā
saccakiriyaṃ katvā gato bhavissati, so pana satthā na kevalaṃ tesaṃyeva
atthāya nibbatto, sace so satthā sammāsambuddho, amhākaṃ rathā mā udake
nimujjiṃsū’’ti udakapiṭṭhe rathe pakkhandāpesi. Rathānaṃ
nemivaṭṭimattampi na temi. Dutiyatatiyanadīpi teneva saccakārena
uttaramānāyeva nigrodharukkhamūle satthāraṃ addasa. Satthā ‘‘imāsaṃ
attano sāmike passantīnaṃ chandarāgo uppajjitvā maggaphalānaṃ antarāyaṃ
kareyya, so evaṃ kātuṃ na sakkhissatī’’ti yathā aññamaññe na passanti,
tathā akāsi. Tā sabbāpi titthato uttaritvā dasabalaṃ vanditvā nisīdiṃsu.
Satthā tāsaṃ dhammaṃ kathesi, desanāpariyosāne sabbāpi sotāpattiphale
patiṭṭhāya aññamaññe passiṃsu. Satthā ‘‘uppalavaṇṇā āgacchatū’’ti
cintesi. Therī āgantvā sabbā pabbājetvā ādāya bhikkhunīnaṃ upassayaṃ
gatā. Satthā bhikkhusahassaṃ gahetvā ākāsena jetavanaṃ agamāsi. Imaṃ
sandhāyetaṃ vuttaṃ – ‘‘mahākappinoti evaṃ nāmako abhiññābalappatto
asītimahāsāvakānaṃ abbhantaro mahāthero’’ti.
Janetasminti janite pajāyāti attho. Ye gottapaṭisārinoti ye ‘‘mayaṃ
vāseṭṭhā gotamā’’ti gottaṃ paṭisaranti paṭijānanti, tesaṃ khattiyo
seṭṭhoti attho. Vijjācaraṇasampannoti aṭṭhahi vijjāhi ceva
pannarasadhammabhedena caraṇena ca samannāgato. Tapatīti virocati. Jhāyī
tapati brāhmaṇoti khīṇāsavabrāhmaṇo duvidhena jhānena jhāyamāno tapati
virocati. Tasmiṃ pana khaṇe kāludāyitthero duvidhena jhānena jhāyamāno
avidūre nisinno hoti. Buddho tapatīti sabbaññubuddho virocati.
Sabbamaṅgalagāthā kiresā. Bhātikarājā kira ekaṃ pūjaṃ kāretvā ācariyakaṃ
āha – ‘‘tīhi ratanehi amuttaṃ ekaṃ jayamaṅgalaṃ vadathā’’ti. So
tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ sammasitvā imaṃ gāthaṃ vadanto ‘‘divā tapati
ādicco’’ti vatvā atthaṅgamentassa sūriyassa añjaliṃ paggaṇhi.
‘‘Rattimābhāti candimā’’ti, uṭṭhahantassa candassa añjaliṃ paggaṇhi.
‘‘Sannaddho khattiyo tapatī’’ti rañño añjaliṃ paggaṇhi. ‘‘Jhāyī tapati
brāhmaṇo’’ti bhikkhusaṅghassa añjaliṃ paggaṇhi. ‘‘Buddho tapati
tejasā’’ti vatvā pana mahācetiyassa añjaliṃ paggaṇhi. Atha naṃ rājā ‘‘mā
hatthaṃ otārehī’’ti ukkhittasmiṃyeva hatthe sahassaṃ ṭhapesi.
Ekādasamaṃ. |
1) ... Trú ở Sàvatthi. 2) Rồi Tôn giả Mahà Kappina đi đến Thế Tôn. 3) Thế Tôn thấy Tôn giả Mahà Kappina từ
đường xa đi đến. 4) Sau khi thấy, Thế Tôn liền gọi các
Tỷ-kheo: -- Các Ông có thấy không, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo kia đi đến, da bạc trắng, ốm yếu, với cái mũi cao? -- Thưa có, bạch Thế Tôn. 5) -- Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, có đại
thần thông, có đại uy lực. Thật không dễ gì đạt được sự chứng đắc mà
trước kia vị Tỷ-kheo ấy chưa chứng đắc. Vị ấy còn ngay trong hiện tại,
tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh
Phạm hạnh mà vì mục đích này, con các lương gia chơn chánh xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình. 6) Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ thuyết
như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm: Sát-lỵ là tối thượng, |
12. Sahāyakasuttaṃ |
12.
Sahāyakasuttavaṇṇanā |
XII. Thân Hữu
(S.ii,285) |
246.
Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho dve bhikkhū sahāyakā āyasmato
mahākappinassa saddhivihārino yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu. Addasā kho
bhagavā te bhikkhū dūratova āgacchante. Disvāna bhikkhū āmantesi –
‘‘passatha no tumhe, bhikkhave, ete bhikkhū sahāyake āgacchante
kappinassa saddhivihārino’’ti? ‘‘Evaṃ, bhante’’. ‘‘Ete kho te bhikkhū
mahiddhikā mahānubhāvā. Na ca sā samāpatti sulabharūpā, yā tehi
bhikkhūhi asamāpannapubbā. Yassa catthāya kulaputtā sammadeva agārasmā
anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva
dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharantī’’ti.
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Sahāyā vatime bhikkhū, cirarattaṃ sametikā;
Sameti nesaṃ saddhammo, dhamme buddhappavedite.
‘‘Suvinītā kappinena, dhamme ariyappavedite;
Dhārenti antimaṃ dehaṃ, jetvā māraṃ savāhini’’nti. dvādasamaṃ;
Bhikkhusaṃyuttaṃ samattaṃ.
Tassuddānaṃ –
Kolito upatisso ca, ghaṭo cāpi pavuccati;
Navo sujāto bhaddi ca, visākho nando tisso ca;
Theranāmo ca kappino, sahāyena ca dvādasāti.
Nidānavaggo dutiyo.
Tassuddānaṃ –
Nidānābhisamayadhātu, anamataggena kassapaṃ;
Sakkārarāhulalakkhaṇo, opamma-bhikkhunā vaggo.
Dutiyo tena pavuccatīti.
Nidānavaggasaṃyuttapāḷi niṭṭhitā. |
246. Dvādasame
cirarattaṃsametikāti dīgharattaṃ saṃsanditvā sametvā ṭhitaladdhino. Te
kira pañcajātisatāni ekatova vicariṃsu. Sameti nesaṃ saddhammoti idāni
imesaṃ ayaṃ sāsanadhammo saṃsandati sameti. Dhamme buddhappavediteti
buddhena pavedite dhamme etesaṃ sāsanadhammo sobhatīti attho. Suvinītā
kappinenāti attano upajjhāyena ariyappavedite dhamme suṭṭhu vinītā.
Sesaṃ sabbattha uttānamevāti. Dvādasamaṃ.
Bhikkhusaṃyuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Iti sāratthappakāsiniyā saṃyuttanikāya-aṭṭhakathāya
Nidānavaggavaṇṇanā niṭṭhitā. |
1) ... Trú ở Sàvatthi. 2) Rồi hai Tỷ-kheo thân hữu, đệ tử của Tôn
giả Mahà Kappina, đi đến Thế Tôn. 3) Thế Tôn thấy hai Tỷ-kheo ấy từ đàng xa
đi đến. 4) Thấy vậy, Thế Tôn liền gọi các Tỷ-kheo: -- Các Ông có thấy không, này các Tỷ-kheo,
hai Tỷ-kheo thân hữu ấy đang đi tới, cả hai là đệ tử của Tôn giả Mahà
Kappina? -- Thưa có, bạch Thế Tôn. 5) -- Hai Tỷ-kheo ấy có đại thần thông, có
đại uy lực. Thật không dễ gì đạt được sự chứng đắc mà trước kia những
Tỷ-kheo ấy chưa chứng đắc. Các vị ấy còn ngay trong hiện tại, tự mình
với thắng trí, chứng ngộ, chứng đắc và an trú vô thượng cứu cánh Phạm
hạnh, mà vì mục đích này, con các lương gia chơn chánh xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình. 6) Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Thiện Thệ
nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm: Tỷ-kheo thân hữu này, |
Mục Lục Tương Ưng Bộ Kinh PaliViệt
Phân đoạn song ngữ: VT Do
Updated 10-5-2019