Bản Đồ Hành Tŕnh Tâm Linh

Thiền Sư Sayadaw U Jotika

Tỳ Kheo Tâm Pháp dịch


 

Chương 5: Tuệ giác thứ nhất thứ hai: Hay biết tâm và đối tượng; Phân biệt nhân duyên

Phần 1: Tuệ giác thứ nhất thứ hai: Hay biết tâm và đối tượng; Phân biệt nhân duyên

Thực sự th́ không có chúng sanh nào cả. Có một loại thực tại trong đó chúng ta nh́n nhận chúng sanh là một thực tế, đó là sammuti-sacca (thực tại quy ước, hay thực tại chế định). Đừng lẫn lộn hai thực tại này với nhau. Trong thực tại chế định có các chúng sanh, có đàn ông, đàn bà. Khi chúng ta đă đến với paramatha (thực tại chân đế), chúng ta hành thiền vượt qua được chỗ đó và chỉ nh́n vào các tính chất thôi

Tuệ giác thứ nhất và thứ hai: Hay biết tâm và đối tượng; Phân biệt nhân duyên 

Xin chào mừng các bạn đă đến với lớp thiền, tôi rất vui khi gặp các bạn. Một số bạn đă đến đây khá sớm và ngồi thiền. Thật vui khi nh́n thấy mọi người đến đây hành thiền như thế này. Điều đó cho thấy các bạn thực sự mong muốn tập thiền, các bạn thực sự yêu mến việc ḿnh đang làm. 

Tôi đến đây để chỉ giúp các bạn, chứ không hn đến đây để dạy các bạn. Chỉ khi nào thực sự muốn học th́ các bạn mới học được. Thực ra không ai có thể dạy các bạn được cả, đây là điều rất quan trọng và phải hiểu. 

Vào bài giảng ngày hôm nay, tôi muốn bắt đầu bằng một câu hỏi, một câu hỏi rất đơn giản và câu trả lời cũng rất đơn giản. Nhưng hăy suy nghĩ một lúc đă. Gánh nặng lớn nhất mà chúng ta đang mang là ǵ? Hăy dành vài phút để suy nghĩ về câu hỏi đó. Hỏi đúng là điều quan trọng và sống với câu hỏi cũng là một điều rất quan trọng. Ư tưởng này: Sống với câu hỏi, là rất quan trọng. Chỉ khi nào chúng ta sống với câu hỏi chúng ta mới có câu trả lời sống động, và rồi chúng ta lại sống với câu trả lời đó. Chỉ khi đă sống với câu trả lời, chúng ta mời t́m ra được một câu hỏi khác sâu sắc và đầy ư nghĩa. Và rồi lại sống với câu hỏi đó.

Sống với câu hỏi là cách tốt nhất để t́m ra câu trả lời. 

Các bạn có câu hỏi nào không? Các bạn có sống với nó không? Bất cứ câu hỏi nào cũng được, nhưng câu hỏi đó phải xuất phát từ cuộc sống của bạn, nó phải xuất phát từ trái tim bạn. Đó phải là một câu hỏi sống, không phải chỉ là một câu hỏi lư thuyết hay câu hỏi giả định; nó phải là một cái ǵ rất thực.  

Người có câu hỏi thực và sống với câu hỏi đó sẽ sống một cuộc đời thật nghiêm túc, thật ư nghĩa sâu sắc. Sau khi đă sống với nó một thời gian dài, cuộc sống của bạn sẽ cho bạn câu trả lời; bạn không thể t́m được câu trả lời thực từ sách vở hay bất cứ người nào.  

Họ chỉ có thể cho bạn những lời gợi ư mà thôi, nhưng để thấy được sự thật của câu trả lời bạn phải nh́n lại vào cuộc đời ḿnh.  

Sự thật của câu trả lời không nằm ở ngôn từ, nó nằm trong chính cuộc sống của bạn.  

Xin hỏi lại, gánh nặng lớn nhất mà các bạn đang mang là ǵ? Bạn đă bao giờ tự hỏi chính ḿnh câu hỏi đó chưa?

Nếu chưa, th́ bây giờ hăy tự hỏi ḿnh đi, cái ǵ là gánh nặng lớn nhất mà ḿnh đang mang? Bạn có thể đoán ra được không?  

Đúng vậy, gánh nặng lớn nht chúng ta đang mang chính là “cái tôi”  

Bạn có cảm thấy được điều đó không? Nếu buông bỏ được “cái tôi” đó, bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhơm ngay. Đó là gánh nặng lớn nhất! V́ vậy, trong thiền, việc đầu tiên cần học là phải thấy rằng chỉ có các hiện tượng tự nhiên đang hiện hữu: Chỉ thuần tuư là những hiện tượng của thân, tâm mà thôi. Một hiện tượng thuộc về tâm rất khác biệt so với một hiện tượng của thân hay sắc.  

Tuệ giác đầu tiên là thấy chỉ có các hiện tượng hiện hữu, không có ǵ là thường hằng, vĩnh cửu, không có chúng sanh, không có thực thể nào, không có “cái tôi”, không bản ngă, không có người nào, chỉ có những hiện tượng thuần tuư mà thôi. Điều đó mang lại một sự nhẹ nhơm cùng, làm ta trút nhẹ tâm tư. “Cái tôi” này là sản phẩm của tâm trí, nó tự tạo ra gánh nặng cho chính nó. Tầng thánh đầu tiên là đoạn trừ hoàn toàn cái tôi này, hay c̣n gọi là tà kiến chấp ngă (thân kiến) – sakkaya – ditthi. Tầng thánh này chưa đoạn trừ được tham, đây điều quan trọng cần ghi nhớ, và thậm chí sân cũng chưa được đoạn trừ, cả tật ganh đua, kiêu hănh, ngă mạn nữa. Nó đoạn trừ tà kiến về “cái tôi”. Đôi khi mọi người nói, Mấy người này hành thiền kiểu ǵ mà vẫn sân thế!” Đúng, họ vẫn c̣n rất tham, nhưng cái tham đó không c̣n sự h trợ của “cái tôi”. Mặc dù tham, nhưng họ sẽ không đi ăn cắp hoặc lừa đảo người ta. Họ có được cái ḿnh muốn một cách chính đáng, bằng phương thức chính đáng. Bây giờ tôi sẽ nói sơ lại những điều đă giảng tuần trước và đi tiếp từ đó.  

Nanarupanam yathavadassanam, ditthivisuddhi nama ~Vsm 587

Nanarupanam một từ ghép, nama rupa (danh sắc). Nama (danh) là một tiến tŕnh, không phải là một thực thể hay một chúng sanh nào cả, nó không thường c̣n, vĩnh cửu. Nó luôn luôn có mặt ở đó. Nama (danh) là một cái ǵ đó luôn sanh khởi. Rupa (sắc) cũng phải là một vật. Thực chất rupa là một tính chất. Hăy ghi nhớ điều này. Mỗi khi dùng từ sắc, chúng ta không thể nói đến một vật nào mà đang nói về tính chất. Nóng là một tính chất, không phải là một vật thể, lạnh không phải là một vật thể, nó là một tính chất, một tiến tŕnh. Nó là một thứ ǵ đó luôn luôn diễn tiến không ngừng. Nó có tính liên tục nhưng luôn sanh diệt, sanh diệt. thế nó được gọi là một tiến tŕnh. Hai tiến tŕnh này, danh và sắc (nama rupa) hoàn toàn khác nhau, không phải là một. Đôi khi tôi nghe có người nói về cái bất nhị (không hai), rằng không có cái ǵ gọi là danh hay sắc cả, cả hai đều là một. Điều đó không đúng. Chúng không phải là một. Chúng rất khác nhau. Danh(nama) là một loại tâm, hay biết. Sắc (rupa) chỉ là một đối tượng không có tính chất hay biết này, nó không biết ǵ cả. Danh là tính hay biết, sắc không hề hay biết ǵ cả, nó chỉ là tính chất thuần tuư của vật chất mà thôi. Chúng là hai thứ khác nhau, tâm và vật chất.

Trong quá tŕnh hành thiền, tâm trở nên rất tĩnh lặng, mặc dù đôi lúc vẫn có một vài ư nghĩ thoảng đến và đi, song tâm vẫn an trụ trên đề mục trong một thời gian dài. Nó bắt đầu tập trung vào một việc; nó không tập hợp các sự việc lại với nhau nữa. Tính không tập hợp, ráp nối các sự việc lại với nhau này rất quan trọng. 

Khi tập hợp, ráp nối các sự việc với nhau chúng ta có một khái niệm, một khái niệm tục đế pannatti. Khi không tập hợp, chắp nối nữa, chúng ta nh́n sự việc chỉ đơn thuần như chúng đang là. Khi đó chúng ta sẽ thực sự thấy được tính chất, hoặc là danh (nama) hoặc là sắc (rupa) 

Khi tâm trở nên thật tĩnh lặng và thấy được tính chất thuần tuư của sự vật, chúng ta có thể thấy nó đơn thuần chỉ là các tính chất, không phải là một chúng sanh nào, không phải đàn ông, không phải đàn bà. Đây là tuệ giác đầu tiên, nó rất quan trọng. Trừ phi chúng ta đạt được tuệ giác thứ nhất này, bằng không không có hy vọng đạt được một tiến bộ nào. Chúng ta sẽ thấy: Có cái tâm này hay biết đối tượng này. Ví dụ: Tiếng động này chẳng hạn, khi tôi tạo ra tiếng động, tiếng động chỉ đơn thuần là tính chất vật lư, nó là một tiến tŕnh. Bạn có thể nghe tiếng chuông ngân lên rồi tắt dần.

Trước khi tôi đánh chuông th́ chưa có sự hay biết về tiếng chuông này. Sự hay biết này xuất hiện bởi v́ có tiếng chuông. Bạn có thể thấy hai cái này rất rơ, rất tách biệt với nhau. Và bây giờ th́ sự hay biết mới xuất hiện. Nó không có sẵn ở đó để luôn hay biết tiếng chuông. Nó không đứng đó để chờ nghe tiếng chuông. Sự hay biết xuất hiện khi tiếng chuông xuất hiện. Trước khi có tâm biết tiếng chuông, có một tâm hay biết khác, nó cũng là nhân duyên để cho tâm hay biết tiếp theo xuất hiện. Nhưng chúng không phải là một. Chúng ta cứ nghĩ rằng luôn có một cái ǵ đó nguyên vẹn không đổi trong mọi lúc, luôn có một cái ǵ đó ở đó. Đây cách chúng ta tạo ra ư niệm về tính liên tục ở trong tâm. Các suy nghĩ tạo nên tính liên tục và chúng tạo nên ư niệm về sự nguyên vẹn, không thay đổi này. Khi chúng ta dừng lại mọi suy nghĩ và chánh niệm, tập trung và chú ư vào bất cứ cái ǵ đó đang diễn ra trong hiện tại, ngay bây giờ chúng ta thấy có cái ǵ đó đang sanh khởi. Trước kia nó không có ở đó. Nó đang hiện hữu ngay trong hiện tại.

Nanarupanam yathavadassanam, ditthivisuddhi nama (thấy danh sắc một cách đúng đăng như chúng thực sự đang là được gọi là kiến tịnh). Yathava nghĩa là một cách đúng đắn, một cách chân chánh, thích hợp, như đang là. Dassnam thấy. Thấy danh sắc (Nama và rupa), các hiện tượng tâm lư và vật lư như chúng đang là, thấy một cách đúng đắn, thấy một cách thích hợp và chân chánh th́ được gọi ditthivisuddhi (kiến tịnh). Ditthi nghĩa là kiến (chữ kiến trong chánh kiến). Visuddhi thanh tịnh, thanh lọc. Và chử nama thứ hai ở đây có nghĩa “được gọi là”. 

Khi thấy từ Nama trong tiếng Pali chúng ta phải nhớ rằng chúng có rất nhiều nghĩa, trong mỗi ngữ cảnh lại mang một nghĩa khác nhau. Trong một số trường hợp, có người dịch nama- rupa là tên gọi và h́nh thể (name and form), dịch như vậy là sai. Tôi đă trao đổi vấn đề này với đại đức Nanavisuddhi và chúng tôi phải bàn mất hai ngày mới xong. Chúng tôi đă xem xét lại rất nhiều cách dịch khác nhau của từ này. Nama không có nghĩa là tên gọi. Tên gọi là một khái niệm. Nhưngnama cũng có một nghĩa là tên. Và trong trường hợp khác nó là “có nghĩa là”. Chữ nama ở đầu câu có nghĩa tiến tŕnh của tâm. Chữ nama thứ hai ở cuối câu nghĩa là “có nghĩa là”. 

Vậy câu Pali này dịch ra như sau: ditthivisuddhi (kiến tịnh) là thấy danh sắc như chúng đang là, thấy một cách đúng đắn, thấy một cách chân chánh và thích hợp mọi hiện tượng của thân tâm. Như vậy nama-rupa không nghĩa là tên gọi và h́nh thể. Tên gọi là một khái niệm. H́nh thể, h́nh dáng cũng đều là những khái niệm. Chúng không phải là thực tại. 

Khi chúng ta hành thiền và phát triển Tuệ Phân biệt Danh Sắc (nama –rupa pariccheda –nana), điều đó không có nghĩa chúng ta biết tên gọi và h́nh thể; mà là chúng ta thấy được tiến tŕnh của thân và tâm. Cách dịch sai lầm đôi khi làm chúng ta hiểu sai rất nhiều, gây nhầm lẫn và rối tung. Chẳng hạn chúng ta đang ngồi thiền, hít vào, thở ra, lúc đầu th́ chúng ta biết h́nh dáng cơ thể ra sao, h́nh dáng của cái mũi thế nào, thậm chí đôi khi chúng ta c̣n tưởng tượng ra h́nh dáng của luồng không  khí dài như một sợi dây, đang ra vào ra vào. Cái “dài” này là cái bạn tưởng tượng ra. Ở đâu ra mà có luồng không khí dài ra vào? Không có luồng không khí dài nào cả. Nhưng đôi khi ta có cảm giác là như thế. Dần dần chúng ta sẽ vượt qua được tất cả những sự tưởng tượng về h́nh dáng và tên gọi này và sẽ đạt đến chánh niệm đơn thuần trên các cảm giác,về sự cọ xát, xúc chạm, đưa đẩy qua lại (của luồng không khí ra vào lỗ mũi) và sự xúc chạm này là một tiến tŕnh rất đơn giản. Thế mà ngày trong cái tiến tŕnh đơn giản này, chúng ta vẫn chấp giữ tà kiến trong đó. 

Để thanh lọc tà kiến, chúng ta phải thấy rằng một cái tâm hay biết cảm giác này. Cảm giác đó có thể là nóng hay lạnh. Khi chúng ta thở vào, hơi thở hơi mát, lạnh lạnh, thở ra hơi nóng nóng. Cái nóng, mát, lạnh, xúc chạm, đưa đẩy ra vào này… bạn chỉ chánh niệm hay biết nó, không suy nghĩ về nó. Chúng ta thấy rằng có hai tiến tŕnh khác nhau đang diễn tiến, không có tiến tŕnh nào trong đó là một chúng sanh, một thực thể cả, và không có tiến tŕnh nào kéo dài. Chúng sanh lên bây giờ và cũng diệt mất bây giờ. 

Trong giai đoạn dầu, chúng ta không chú trọng đến sự sanh và diệt, chúng ta chỉ chú trọng đến các tiến tŕnh thuần tuư. Tiến tŕnh vật lư này diễn ra không có tác ư, không do ư muốn của ai cả.

Chẳng hạn, tóc không hề ư thức được rằng nó đang nằm ở trên đầu và tóc cũng chẳng muốn đi đâu cả; vậy th́ ai muốn ở đây? Chính là Tâm. Cái phần vật chất này không có ư muốn, không có tác ư. Chỉ thấy rằng tâm đi đến đối tượng và với tới đối tượng. Chúng ta muốn nghe nên chú ư lắng nghe, và cái chú ư này chính là một đặc tính của danh (nama), nắm bắt đối tượng, hay biết đối tượng. Có một cái không hay biết được cái ǵ cả, đó là tiến tŕnh vật lư của thân, ngoài tiến tŕnh thân ra c̣n có một tiến tŕnh khác để hay biết đối tượng. Hai tiến tŕnh này hoàn toàn khác nhau. Danh (nama) sanh khởi bởi v́ có đối tượng. Không có đối tượng th́ không thể bất cứ một tâm nào sanh khởi. Tâm không luôn sẵn sàng có mặt ở đó. 

Chẳng hạn khi tôi gơ vào chuông thế này, tiếng chuông không đi ra từ chiếc dùi này, nó cũng chẳng đi ra từ cái chuông. Điều đó có nghĩa rằng, tiếng chuông không phải lúc nào cũng luôn có mặt ở đó. Tuỳ thuộc vào việc tôi gơ mạnh hay nhẹ mà tính chất của tiếng chuông sẽ khác; nó không luôn ngồi chờ ở đó mà chạy ra từng tiếng, từng tiếng một. Nếu nó luôn chờ sẵn ở đó để đi ra, th́ dù tôi gơ mạnh thế nào đi chăng nữa, tiếng chuông chạy ra phải giống y như nhau. Nếu tôi thay đổi nhân duyên của nó th́ quả cũng sẽ khác liền. Như vậy, tiếng chuông không ở cây dùi, không ở cái chuông,nó cũng không chờ sẵn ở đó. Nó xảy ra khi cây dùi đánh vào cái chuông, điều đó nghĩa là tất cả mọi việc đều là mới. Hiểu được rằng nó hoàn toàn mới mẻ là rất quan trọng. Cũng giống như vậy đối với cái nh́n, khi không có tâm chánh niệm, khi nhắm mắt, bạn không nh́n thấy cái ǵ trước mặt. Khoảnh khắc bạn mở mắt ra, có một cái ǵ đó đập vào mắt bạn và cái tâm hay biết- nhăn thức này sanh khởi. Nó sanh khởi vào đúng khoảnh khắc đó; bạn có thể thấy rơ hai sự việc khác nhau, đối tượng và tâm hay biết. Điều này được gọi là Tuệ Phân biệt Danh Sắc (namarupa-paricheda nana). 

Một ví dụ khác, khi bạn muốn cử động, trước hết tâm thức sanh khởi tác ư muốn cử động rồi sau đó tay hoặc chân mới đưa ra. Trong trường hợp tiếng động, th́ tiếng động là tiền đề cho tâm sanh khởi, bởi v́ có tiếng động nên mới có tâm biết sanh lên. Trong trường hợp cử động th́ tác ư muốn cử động là tiền đề cho cử động diễn ra, tiến tŕnh của thân tâm làm tiền đề của tâm và tiến tŕnh của thân. Nó vận hành theo cả hai chiều. Khi đói bụng, chúng ta muốn ăn, chúng ta lấy đồ ăn và bỏ vào miệng. Nhưng thực sự th́ có ai đang ăn? Chức năng ăn được thực hiện do thân, do tiến tŕnh của thân. Tay cầm thức ăn và đưa lên miệng. Nếu bạn không đưa tay mà chỉ ngồi đó rồi bảo thức ăn đi vào miệng ḿnh, nó sẽ chẳng chịu đi đâu. 

Tâm trù định và đưa ra hướng làm, đưa ra chỉ dẫn cho thân; như vậy tâm dự định và thân ăn. 

Thân tâm ăn, không phải “tôi” ăn, thân và tâm ăn nhưng chúng ta cứ nghĩ rằng tôi đang ăn. Sự thực chỉ có các tiến tŕnh thân tâm đang ăn. Nếu bạn hiểu được đó chỉ là một tiến tŕnh, bạn đă có được sự thanh tịnh về tri kiến (kiến tịnh). Khi bạn muốn uống th́ đó cũng là cùng một tiến tŕnh như vậy. Khi bạn muốn đi cũng vậy. Bạn đứng đă khá lâu và cảm thấy mơi mệt, chân tê cứng và muốn đi, tác ư muốn đi sanh khởi “ đi, đi”, nó thúc đẩy thân bạn đi. Bạn quyết định bước, nhấc chân lên, đưa ra phía trước và đặt xuống… như vậy, thân và tâm đang đi, không phải là một chúng sanh nào đang đi cả. Thấy theo cách đó là Tuê Phân biệt Danh Sắc (namarupa- paricheda –nana). 

Thực sự th́ không có chúng sanh nào cả. Có một loại thực tại trong đó chúng ta nh́n nhận chúng sanh là một thực tế, đó làsammuti-sacca (thực tại quy ước, hay thực tại chế định). Đừng lẫn lộn hai thực tại này với nhau. Trong thực tại chế định các chúng sanh, đàn ông, đàn bà. Khi chúng ta đă đến với paramatha (thực tại chân đế), chúng ta hành thiền vượt qua được chỗ đó và chỉ nh́n vào các tính chất thôi. Nhưng khi hành thiền th́ chúng ta không được suy nghĩ về điều đó nữa. Điểm quan trọng là bạn phải cố gắng và tư duy trước khi hành thiền, nhưng khi đă ngồi vào thiền th́ không được nghĩ về danh sắc (nama-rupa) nữa. Khi bạn trở nên chánh niệm hơn, tâm an trụ nhiều hơn trong tiến tŕnh, nó sẽ xuất hiện một cách tự nhiên, một cách tức thời, và tuệ giác sẽ có mặt một cách rất rơ ràng: Hai tiến tŕnh đang diễn tiến. 

Hiểu hoặc thấy được tiến tŕnh danh- sắc (nama-rupa) một cách đúng đắn, một cách thích hợp nghĩa là thấy được rằng:“Đây là danh, đây là tiến tŕnh tâm”, điều này có nghĩa đây không phải là một chúng sanh nào cả. Đây là tiến tŕnh của tâm. Và danh (nama)nghĩa là chính tiến tŕnh này. Nó không lẫn lộn với tiến tŕnh của thân, không hoà trộn vào nhau, không thêm vào. Thông thường chúng ta hay trộn lẫn mọi thứ vào với nhau và chúng ta có một ư niệm mơ hồ về các sự việc. Nhưng ở đây chúng ta thấy một cách rất rơ ràng, minh bạch: Đây là danh, chỉ là danh và không lẫn lộn với sắc. Mặc dù chúng có liên quan với nhau, nhưng chúng không phải là một, chúng là hai tiến tŕnh riêng biệt. Không hơn thế. Danh chỉ danh mà thôi. Không có ǵ hơn thế, và “Đây là sắc, thuộc thân vật lư”: nóng, lạnh, cử động, sức ép, nặng nhẹ, bất cứ cái ǵ, chúng chỉ là tiến tŕnh của thân. Đến như thế này là thuộc về thân, không có ǵ hơn. Đến như thế này là thân vật lư. Thân không trộn lẫn với tâm, mặc dù nó liên quan đến tiến tŕnh của tâm. “Không có ǵ hơn thế.” “Chỉ thấy rơ đặc tính vốn có của tự nhiên”, tự nhiên có rất nhiều đặc tính khác nhau; bạn chỉ cần thấy rơ các đặc tính khác biệt này. Hăy đoạn trừ phần lậu hoặc khi nh́n một tiến tŕnh như một cái ǵ đó, như bản ngă hay “cái tôi”, hăy đoạn trừ nó. Đoạn trừ lậu hoặc hoặc kiến về một cái tôi “ngă kiến”, hay tà kiến về một linh hồn, một chúng sanh, một thực thể nào đó. Đoạn trừ tà kiến chấp rằng có một linh hồn cần được hiểu quá tŕnh thanh tịnh tri kiến (kiến tịnh). Khi hành giả đă đạt đến tuệ namarupa –paricheda nana (Tuệ Phân biệt Danh Sắc), tầng tuệ giác này chính là kiến tịnh(ditthivisuddhi). Kiến tịnh xuất hiện cùng với tuệ giác đầu tiên. 

Tuệ giác thứ hai là Tuệ Phân biện Nhân duyên (pacaya-pariggaha – nana). Paccaya có nghĩa là nhân duyên, pariggahanghĩa nắm bắt. Nana nghĩa là tuệ. Từ nắm bắt trong tiếng Anh có nhiều nghĩa. Một trong những nghĩa đó nắm cái trong tay, giữ chặt nó, nhưng nó cũng có nghĩa là hiểu biết. Như vậy, hiểu biết, nắm bắt được nguyên nhân của các hiện tượng, thấy rơ, hiểu rơ nhân duyên của chúng, thấy được mối liên quan giữa chúng với nhau với nhau. Đầu tiên chúng ta thấy đối tượng chỉ là đối tượng và tâm chỉ là tâm, rồi dần dần khi tuệ giác này chín muồi, không suy nghĩ về nó, hành giả bắt đầu nhận ra rằng: Do có đối tượng này nên mới có tâm này sanh khởi. 

Đối tượng này chính là nhân sanh khởi tâm này. Tâm không tự nó sanh khởi, không ai tạo ra nó cả. Tâm không thể sanh khởi mà không có nguyên nhân; nó sanh khởi chỉ một nguyên nhân khiến nó sanh khởi. Tuỳ thuộc vào tŕnh độ nhận thức hay hiểu biết của hành giả mà mỗi người nh́n thấy được một khía cạnh khác nhau của nhân duyên, có người thấy được nhiều, có người thấy được ít, nhưng điều đó không quan trọng. Vấn đề thực sự là ở chỗ: Không cần biết cái ǵ sanh khởi, miễn là bạn biết nó sanh khởi do một nguyên nhân. Lấy ví dụ tiếng động, điều này rất rơ ràng. Nhưng chúng ta nghĩ rằng: Tất cả mọi người ai cũng biết điều đó, tại sao chúng ta phải đi hành thiền để làm ǵ? Không phải chúng ta hành thiền để phát hiện ra điều đó. Chúng ta chỉ biết điều đó trên bề mặt kiến thức thôi, nhưng thực tế th́ khác xa. 

Hiểu biết về kiến thức không loại bỏ được ngă kiến. Chúng ta nghĩ rằng chính ḿnh nghe tiếng động, “Tôi nghe thấy tiếng động”. Nhưng trong thiền th́ “cái tôi” này không c̣n nữa. 

Bạn thấy rơ tâm biết này sanh khởi ngay trong hiện tại, bởi v́ có tiếng động này, không có “tôi” nghe. Có lúc bạn hiểu được rằng: Bởi v́ có tai nên có cái nghe; cái nghe là một tâm. Tiếng động và tai, màng nhĩ là một bộ phận cảm nhận của tai, là nhân tạo ra cái nghe. Khi đă hành thiền một thời gian, bạn sẽ hiểu rằng: “Chỉ khi nào chú ư, tôi mới nghe được tiếng động”, tôi sử dụng chữ “tôi” đây theo nghĩa quy ước thông thường. Xung quanh chúng ta có rất nhiều tiếng động, tiếng người nói v.v..; nhưng chúng ta không chú ư th́ cũng không nghe thấy. 

Chúng ta hiểu được rằng: Tâm hướng về đối tượng, tác ư hướng tâm (manasikara); không có sự chú ư chúng ta không thể nghe được. 

Khi ngủ, mặc dù màng nhĩ vẫn hoạt động, xung quanh vẫn có tiếng động nhưng chúng ta không nghe được, bởi v́ không chú ư. Đây là một ví dụ rất rơ. Ngay cả khi chúng ta ư thức và đang rất tập trung đọc sách, nếu có ai đó bên cạnh gọi tên, chúng ta vẫn không nghe thấy bời chúng ta không chú ư.

Tiếng động, tai thâu nhận và sự chú ư tạo duyên cho cái nghe xảy ra. 

Cũng tương tự đối với cái nh́n, chúng ta nghĩ rằng chính ḿnh nh́n, nhưng khi đă phát triển được tuệ giác này, khi nh́n chúng ta biết tâm hay biết, chúng ta biết là có đối tượng nên mới có tâm biết này. Sau một thời gian, không hề suy nghĩ, hiểu biết đó sẽ đến với bạn: Bởi v́ đôi mắt có khả năng cảm nhận nên chúng ta thấy. Đôi khi có người đến nói với tôi: “Thật là kỳ lạ, chúng ta nh́n” Bỗng nhiên người đó phát hiện ra một điều đáng ngạc nhiên là chúng ta nh́n. Bạn đă bao giờ kinh nghiệm được điều đó chưa? Điều đó thật tuyệt vời, thật kỳ diệu; đột nhiên chúng ta cảm nhận sự việc theo một cách hoàn toàn mới. 

Tại sao lại không nh́n? Một triết gia, Wittgenstein, bạn đă bao giờ nghe đến tên ông ta chưa? Ông cùng thời với Bertrand Russel và thay thế Russel giữ chức giáo sư. Wittgenstein Đă nói nên một điều thật sâu sắc và ư nghĩa, ông nói: “Tại sao không phải là vô thể, thay v́ hữu thể?” Nếu bạn thực sự hiểu được điều này, có lúc bạn sẽ rất sốc; thật đáng ngạc nhiên làm sao, khi cứ luôn luôn phải có một cái ǵ đó! Thật đáng ngạc nhiên khi có những nụ hoa, có những hàng cây, có những con côn trùng và muông thú, có con người và có các hành tinh. Sao chẳng phải không có ǵ nhỉ? Tại sao cứ phải có một cái ǵ đó hiện hữu? Chính cái đó ấy mới thực là điều đáng ngạc nhiên. Cũng tương tự như thế, hành giả bắt đầu phát hiện ra rằng: Cái nh́n đang diễn ra và điều đó thật đáng ngạc nhiên. Hành giả thấy rằng nh́n là một tiến tŕnh mời mẻ, một kinh nghiệm mới mẻ. Hầu hết thời gian chúng ta chỉ loay hoay, bận rộn làm công việc này việc kia một cách rất vô thức, như trong một giấc mơ; rồi bỗng nhiên chúng ta tỉnh dậy và thấy rằng… có một cái thấy và điều này thật ngạc nhiên làm sao. Bạn cảm nghiệm cái nh́n như một điều hoàn toàn mới mẻ. Nó đập vào bạn, quất vào bạn. Tôi cảm thấy rất vui khi người đến nói rằng: “Ô, thật đáng ngạc nhiên, chúng ta nh́n, chúng ta nghe, chúng ta suy nghĩ.” Tại sao điều đó xảy ra?  

Etass’eva pana namarupassa passayapariggahanena Tisu addhasu kankham vitaritva thitam nanam Kankhavitarana –visuddhi nama. 

Etass’eva pana namarupassa: Về cái danh sắc mà chúng ta vừa nói đến trong vài khoảnh khắc trước đây. 

Paccayapariggahanena: Thấy được nguyên nhân của nó 

Tisu addhasu: Quá khứ, hiện tại và tương lai. Khi hành thiền chúng ta chỉ chú tâm vào hiện tại mà thôi. Chúng ta không quan tâm đến quá khứ bởi v́ nó đă đi qua mất rồi. Chúng ta không chú ư đến tương lai v́ tương lai th́ chưa đến. Nhưng khi hiểu được hiện tại một cách đúng đắn th́ chúng ta hiểu được quá khứ và tương lai. 

Kankham vitaritva: Khi thấy rơ danh sắc sanh khởi do nhân duyên, bởi v́ có nguyên nhân khiến nó sanh khởi, thấy rơ điều này sẽ xoá sạch mọi hoài nghi; kankham nghĩa hoài nghi. Vitatitva nghĩa vượt qua. Chúng ta vượt qua hoài nghi. Chúng ta có những hoài nghi nào? Chúng ta nghĩ về “cái tôi” này, “Trong quá khứ có tôi không? Trong tương lai tôi sẽ sinh về đâu?” Nhưng khi đă thấy rơ danh- sắc, tiến tŕnh và nguyên nhân làm cho danh sắc sanh khởi, chúng ta sẽ hiểu được rằng: Cái đang diễn ra trong hiện tại cũng đă diễn ra trong quá khứ và cũng sẽ diễn ra trong tương lai, nếu có đủ nhân duyên cho nó diễn ra, nếu không có nhân duyên nó sẽ không xảy ra. 

Khi chúng ta nêu câu hỏi: “Trong quá khứ tôi ở đâu?”, đó là một câu hỏi vô nghĩa. “Liệu tôi sẽ c̣n quay lại nơi đó nữa không?” Một số người hỏi cái ǵ xảy ra đối với một vị A la hán sau khi chết? Nếu chúng ta nêu câu hỏi này với ư niệm về một con người, câu hỏi này một câu hỏi nghĩa. Trong thực tế không có cái ǵ là “tôi” cả, mà chỉ có những tiến tŕnh. Nếu bạn hiểu cái tiến tŕnh đang diễn ra bây giờ và nhân duyên khiến nó diễn ra như vậy, bạn sẽ biết rằng: Bất kể những ǵ xảy ra, dù chúng ta gọi một người là đàn ông, đàn bà, mẹ, cha, thế này hay thế nọ, nếu bỏ qua tất cả tên gọi và khái niệm mà chỉ nh́n nó như là những tiến tŕnh, bạn sẽ thấy rằng: Trong quá khứ cũng có tiến tŕnh danh và tiến tŕnh sắc đang sanh diệt, cũng y hệt như cách chúng ta đang sanh diệt bây giờ. Hiểu biết cái hiện tại một cách hoàn toàn sẽ xoá bỏ được hoài nghi về quá khứ và tương lai. Nó cũng xoá bỏ sự hoài nghi: “ Ai là người sáng tạo ra những điều này?” xảy đến không báo trước, không v́ một lư do nào cả, không nguyên nhân, hay là có ai đó làm cho tất cả mọi thứ xảy ra? Đây là một vấn đề cũng được làm sáng tỏ, bởi v́ chúng ta không biết ai tạo ra nó. Thực ra nó chỉ là nhân quả tự nhiên mà thôi. 

Điều này đôi lúc c̣n tuỳ thuộc vào mức độ hiểu biết của hành giả, nếu được học về Pháp Duyên khởi(paticcasamuppada- thập nhị nhân duyên), hành giả sẽ bắt đầu thấy ra sự thật. Nhưng nếu chưa được học th́ cũng không thành vấn đề. Nguyên lư cơ bản của Pháp Duyên khởi là: Bởi v́ có nhân này nên có quả này, nếu không có nhân ấy sẽ không quả ấy. Nhân diệt th́ quả diệt. Tóm lược ngắn gọn th́ đây chính là 12 nhân duyên. Nếu là người kiến thức uyên thâm, hành giả sẽ hiểu rằng: V́ có tiếng động, có tai và v́ có sự gặp gỡ, hội tụ của âm thanh, tai và tâm thức (thanh trần, nhĩ căn và nhĩ thức) mà có xúc. V́ có xúc nên có thọ (vedana); một thọ lạc hoặc khổ nào đó sẽ xảy ra. Bởi v́ có thọ lạc hoặc khổ, tham hoặc sân sẽ sanh khởi. Chúng ta có thể thấy sự thật một cách rất rơ ràng, có thể không nh́n thấy được toàn bộ tổng thể, nhưng chúng ta cũng thấy rơ được một phần của nó. Nếu trước đây chúng ta chưa bao giờ nh́n hoặc nghe thấy cái ǵ đó và cũng không mong đợi sẽ nh́n hoặc nghe thấy nó, th́ tâm tham đối với thể sanh khởi được không? Thậm chí nó là ǵ bạn c̣n không biết th́ làm sao có tâm tham đối với nó được. Vậy tham sanh khởi như thế nào? Do trước kia bạn đă từng nghe hoặc nh́n thấy nó. Bời sự tiếp xúc nên có thọ (vedana), bởi v́ có thọ nên có tham ái (tanha). 

Phụ thuộc vào mức độ hiểu biết của hành giả mà trong lúc hành thiền, bất ngờ một tia sáng trí tuệ chợt loé lên trong tâm, rất ngắn và rất nhanh, không hề suy nghĩ, thậm chí có khi đó chỉ là một từ Pali ngắn hoặc một từ tiếng Anh, nếu bạn nói tiếng Anh. Đừng suy nghĩ quá nhiều về những tư tưởng này, cho chúng rất sâu sắc đầy ư nghĩa. Nếu bạn tiếp tục thả theo ḍng suy nghĩ, nó sẽ làm gián đoạn chánh niệm sự quan sát của bạn. Trong quá tŕnh hành thiền, những tư tưởng này sẽ đến lại nhiều lần, hăy quan sát chúng, suy nghĩ… tư duy… tư duy… Tư tưởng nảy sinh trong những lúc này có thể rất mạnh, rất nhiều năng lực, rất sâu sắc, rất rơ ràng và cũng rất khích lệ, v́ vậy mà đôi khi chúng ta cứ muốn nói măi về chúng; không thể ngưng được. Nếu điều đó xảy đến với bạn, điều quan trọng là phải hiểu rằng: Nếu bạn buông ḿnh theo chúng, bạn sẽ bị mất chánh niệm liền. Trong các khoá thiền tích cực hoặc ở nơi nào cũng vậy, nếu bạn thực sự muốn phát triển tuệ giác sâu sắc th́ đừng suy nghĩ hoặc nói chuyện về nó, mặc dầu rất khó kiềm chế để không nói hay không nghĩ. Chúng ta đă phát triển những tuệ giác sáng suốt đến vậy và cảm thấy rất hạnh phúc và cảm thấy rất hạnh phúc đến điều đó, cảm thấy rất nhẹ nhơm và v́ vậy muốn bạn bè, người thân của ḿnh cũng được như vậy. bạn biết nếu người đó hiểu được, họ sẽ cảm thấy nhẹ nhơm bời chính bạn đă tự ḿnh cảm nghiệm được trạng thái nhẹ nhơm, buông xả đó. 

 

Gánh nặng của “cái tôi”. Một khi đă thấy rơ danh –sắc, thấy nguyên nhân danh-sắc sanh và diệt, bạn sẽ cảm thấy cực kỳ nhẹ nhơm. Rất nhiều niềm vui, hạnh phúc, hỷ lạc và đức tin. Bạn đặt ḷng tin vào Đức Phật. 

Có người nói với tôi, lần đầu chứng nghiệm điều này, anh cảm thấy rất nhiều hỷ lạc trong ḿnh và ngay lập tức nghĩ đến Đức Phật: “Quả thực, Đức Phật nói rất đúng.” Nhiều người, trong giây phút đó đă cúi xuống đảnh lễ Đức Phật, với ḷng kính tín thực sự, một đức tin chân thành đă phát khởi trong tâm. Một người bạn khác cũng là thiền sinh giỏi, khi ngồi thiền và đạt được một tuệ giác sâu sắc đă nói, “ Con thành kính đảnh lễ Đức Phật, người đă thuyết giảng thuyết chánh niệm này.” Một phong cách đảnh lễ rất mới, rất đậm cá tính; không phải v́ một lư do nào khác, mà chỉ v́ Đức Phật đă thuyết dạy pháp hành chánh niệm này thôi 

 

 

---o0o---

Phần 2: Tuệ giác thứ nhất và thứ hai: Hay biết tâm đối tượng; Phân biệt nhân duyên

Nghe và đọc có thể đem lại cho bạn trí tuệ sâu sắc nhưng vẫn c̣n một bước nữa phải đi: Trí tuệ thiền tập (nana). Đây là cái đẹp trong giáo pháp của Đức Phật. Đức Phật cũng công nhận có kiến thức hoặc hiểu biết thu được từ nghe, đọc và từ tư duy, và hầu hết mọi người chỉ dừng lại ở chỗ này, nhất là các triết gia phương tây, họ chỉ dừng lại đó.

Đức Phật đă tiến thêm một bước xa hơn: Đó là trí tuệ thiền tập.

Tuệ giác thứ nhất và thứ hai: Hay biết tâm và đối tượng; Phân biệt nhân duyên 

Trong kinh điển có nói đến nhiều loại hoài nghi khác nhau, nhưng hành giả không nhất thiết phải kinh qua tất cả. Loại nghi đầu tiên là hoài nghi rằng: Trước kiếp này có “tôi” hiện hữu không? Đây là một loại hoài nghi. Trước kiếp này phải không “tôi”? Đây thực ra cũng là một câu hỏi từ góc độ khác mà thôi. Nếu có một “cái tôi” th́ cái tôi đó như thế nào? H́nh dáng ra sao, đàn ông hay đàn bà? Đủ các loại hoài nghi mà con người có. Tuần trước, tôi kể về một người bạn của tôi, trước kia anh ta là một phụ nữ c̣n bây giờ lại là một người đàn ông. 

Đừng tự măn ḿnh là đàn ông, cũng đừng buồn khổ khi thấy ḿnh là một phụ nữ. Không có ai tốt hơn ai đâu. Tốt hay xấu là ở sự tu tập, ở trí tuệ và ở chính cái tâm của ḿnh. 

“Tôi là một phụ nữ?”, “Tôi là đàn ông?”, “Tôi là người châu Âu hay châu Á?” Có rất nhiều loại hoài nghi, nhưng khi đă hiểu thật sâu sắc những điều này, bạn sẽ biết rằng những danh từ đó chỉ những điều chế định, những thứ đă xảy ra trong quá khứ. Khi có đủ nhân duyên th́ quả sẽ trổ thôi mà. 

“Tôi có tái sinh tiếp không?” cũng cùng một loại hoài nghi, “Có linh hồn nằm ở bên trong tôi, hay ở một nơi nào đó bên ngoài?” cũng là môt loại hoài nghi khác. Khi nh́n thật sâu vào tiến tŕnh thân tâm này, bạn sẽ thấy mọi sự đều sanh và diệt. Không có ǵ là một thực thể trường tồn, vĩnh cửu cả, mọi thứ đều vô thường sanh và diệt. Vậy th́ “cái tôi” này từ đâu đến? 

Khi chúng ta nói tái sinh, nó rất khác với từ đầu thai –chuyển kiếp (reincarnation), mặc đôi khi chúng ta sử dụng hai từ này như thể với cùng một ư nghĩa. Hai từ này không hoàn toàn giống nhau. Đầu thai có nghĩa là một thực thể thường c̣n nào đó có một thân thể mới. Nó có nghĩa một linh hồn chuyển sang một thân mới; thực ra không có ǵ là linh hồn chuyển sang một thân mới cả, chỉ có tâm, tiến tŕnh của tâm và tiến tŕnh của thân. Trong kinh điển nhiều lần giải thích điểm này rất chi tiết. Nó chiếm đến hai tập sách về thiền. Nếu tôi giảng lại mọi chi tiết th́ sẽ mất thời gian rất lâu. Vậy hăy cố gắng hiểu điều này trong bất kỳ trường hợp nào như ngửi, nếm, thân xúc chạm, nghe âm thanh và nh́n như tôi đă giải thích ở trên. Hăy lấy đó làm dụ hiểu các tiến tŕnh khác nhau trong thân và tâm ḿnh. 

Nói tóm lại. đối cới một số người có hiểu biết sâu sắc, họ thấy được Pháp duyên khởi ngay từ lúc đầu. Avijja (vô minh) có nghĩa là si ám hay không hiểu biết, không hiểu biết cái ǵ? Không hiểu biết chân lư, không hiểu biết thực tại. Bởi v́ không hiểu biết nên chúng ta nghĩ rằng: Nếu tôi làm việc này, tôi sẽ đạt được một điều ǵ đó – và cái đó sẽ làm cho tôi hạnh phúc. Điều này gọi là “không hiểu biết”; bởi v́: Thực ra không có cái ǵ trên đời có thể làm cho chúng ta thực sự hạnh phúc được cả.

Khi nghĩ về điều đó, nó sẽ làm cho bạn thật thất vọng và chán chường; chúng ta tự đánh lừa ḿnh quá lâu rồi. Hăy tỉnh dậy và trưởng thành lên! Đă bao giờ bạn t́m được một thứ ǵ làm cho ḿnh măn nguyện măi chưa? Suốt cuộc đời chúng ta đi t́m cái đó, cái thực sự làm cho ḿnh măn nguyện, thực sự hạnh phúc, bạn t́m ra nó chưa? Liệu thực sự là có một cái ǵ đó như thế không? 

Tin rằng có một cái ǵ đó sẽ làm cho ta hạnh phúc, rồi làm mội công việc này công việc kia với hy vọng nó sẽ làm ḿnh hạnh phúc, đó là ảo tưởng, đó chính là vô minh (avijja); không hiểu biết về Tứ Diệu Đế là vô minh.

Tôi muốn diễn đạt một cách thật đơn giản để các bạn hiểu được vấn đề. Chẳng hạn, ở đây vào mỗi Chủ nhật, chúng ta đều có làm phước bố thí, cúng dường (dana); mọi người đến và cúng dường cho tôi. Mỗi ngày mọi người đều đến và cúng dường, đó là một việc làm tốt đẹp; tấm ḷng hào phóng thật là tốt đẹp! Chúng ta cần giúp đỡ lẫn nhau, cần bố thí cho nhau. Chúng ta bố thí tiền bạc, bố thí thức ăn, bố thí quần áo, chúng ta bố thí thời gian, sự quan tâm, chúng ta bố thí kiến thức, dạy học cũng là bố thí, đó là một việc tốt nên làm. Nhưng bạn mong đợi điều ǵ từ những việc làm đó? Sự mong đợi này rất quan trọng. “Tôi cúng dường vật thực này đến vị tỳ khưu đáng kính này, nhờ phước báu của thiện nghiệp đó. Mong rằng tôi sẽ được tái sanh làm một người giàu sang, tôi sẽ hạnh phúc, tôi sẽ măn nguyện”; đó là ảo tưởng. Nó mang lại phước báu thật, nhưng sẽ không thực sự mang lại hạnh phúc cho bạn được đâu. 

Ngay cả khi làm phước bố thí, đôi lúc chúng ta cũng làm với rất nhiều vô minh (avijja), v́ nghĩ rằng nó sẽ mang lại hạnh phúc thật sự, sự măn nguyện thực sự cho ḿnh. Tại sao chúng ta làm phước bố thí? Khi làm phước bố thí, chúng ta mong đời điều ǵ?

 

Tốt nhất hăy nguyện rằng: “Do năng lực của phước thí này, nguyện cho tôi có hội được tu tập và liễu ngộ được chân lư”, đó là điều thực tế chúng ta có thể hy vọng đạt được. 

Nhiều câu chuyện trong kinh điển cho thấy, có người chỉ nhờ bố thí một chút của mà sau đó đă thu lại được rất nhiều phước báu. Đó là một sự đầu tư tốt đẹp. Nó đặt sở trên ḷng tham “cái tôi”. Tôi sẽ thu lại được rất nhiều, đây là một sự đầu tư béo bở. Hăy nh́n sâu vào trong đó, bởi v́ khi bạn mong đợi quá nhiều, th́ đó chính là ḷng tham. Bạn làm phước bố thí, nhưng việc phước đó lại bắt nguồn từ ḷng tham, từ kiến ngă chấp, chấp vào “cái tôi” của ḿnh. Chính v́ tà kiến đó, có lúc chúng ta làm việc tốt, rồi lúc khác ta lại ngu ngốc đi làm việc xấu, việc bất thiện: ăn cắp, sát sanh. Tất cả đều bắt rễ từ niềm tin rằng: Nếu có được cái đó, nó sẽ làm ta hạnh phúc; chẳng hạn như uống rượu, sử dụng chất gây nghiện rồi tin rằng sẽ làm cho ta hạnh phúc. Dù là việc thiện hay bất thiện, nhưng nếu không hiểu biết một cách sâu sắc, chúng ta sẽ làm với sự tin tưởng rằng: “Tôi sẽ làm được một cái ǵ đó.” 

Khi hành giả hành thiền thật sâu sắc sẽ thấy được: Avijja – paccaya sankhara, sankhara- paccaya vinnanam (Vô minh duyên hành, hành duyên thức) toàn bộ tiến tŕnh Thập Nhị Nhân Duyên diễn tiến.

Để giải thích Thập Nhị Nhân Duyên cần phải có một lớp học khác mới có thể giảng gải thật sâu về nó. Bởi v́ Tuệ Phân biện Nhân duyên này (paccaya- pariggaha-nana) đang nói về nhân và quả nên chúng có liên hệ với nhau. 

Sau đây là trích dẫn một đoạn kinh thật thú vị và sâu sắc: 

Kammam natthi vipakamhi. Pako kamme na vijjati.

Annamannam ubho sunna, na ca kammam vina phalam

 

Kamman ca kho upadaya tato nibbattate phalam.

Na h’ettha devo brahma va samsarassatthi karako, Suddhadhamma pavattanti hetusambharapaccaya ti. ~Vsm 603 

Kammam natthi vipakamhi. Pako kamme na vijjati: Trong nhân không có quả, trong quả không có nhân. Cái này không ở trong cái kia. Hai cái không phải là một. Nếu bạn nghĩ rằng nhân ở trong quả hoặc quả ở trong nhân th́ bạn phải có cả hai thứ cùng một lúc. Chúng không đi cùng mà tách biệt nhau.

Annamannam ubho sunna: Có cái này th́ không có cái kia, cái này không có ở trong cái kia; cái kia không có ở trong cái này; chúng loại trừ lẫn nhau. 

Na ca kammam vina phalam: Nhưng không có nhân th́ cũng chẳng có quả. Đây là một bài kệ (gattha) rất hay; rất sâu sắc và ư nghĩa. 

Kamman ca kho upadaya tato nibbattate phalam: Không có Đấng Sáng Tạo nào tạo ra ṿng luân hồi cả (samsara)

Suddhadhamma pavattanti hetusambharapaccaya ti: Chỉ thuần tuư là pháp, thuần tuư tự nhiên đang diễn tiến, bởi v́ có đầy đủ nhân duyên thích hợp. 

Tuỳ thuộc vào trí thông minh và hiểu biết của hành giả mà nhiều ư nghĩ như vậy sẽ hiện khởi trong tâm…nó sanh khởi bởi v́ có đủ nhân duyên. Trong giai đoạn này, rất nhiều ư nghĩ sẽ sanh khởi trong tâm hành giả, một cách tự nhiên, bởi v́ bạn bắt đầu nhận ra những điều thật sâu sắc, thật chí lư. Những suy nghĩ kết nối, xuất hiện nhiều lần trong tâm, điều rất quan trọng cần nhớ là không được suy nghĩ quá nhiều về nó. Do đă phát triển được một mức định tâm chánh niệm nhất định, nên bạn thể thấy mọi sự việc ràng, minh bạch, khiến bạn tư duy rất sâu sắc. 

Bạn có thể dính mắc với tuệ giác của chính ḿnh: “Ồ bây giờ tôi đă thấy rơ, quả đúng là như vậy.” Bạn lặp đi lặp lại những điều như vậy và cứ muốn suy nghĩ hoài về nó. 

Người đă đạt được hai tuệ giác này được gọi một vị tiểu Tu-đà- hoàn (Culasatapanna) nghĩa người đă nhập vào ḍng Thánh. Một vị Tu- đà- hoàn thực sự là một người đă thành đạt được đạo quả (magga-pala) lần đầu tiên (Nhập lưu đạo tuệ Nhập lưu quả tuệ). Đây vẫn chưa phải là đạo quả, song người đă thấu hiểu về danh sắc nguyên nhân của danh sắc là người đă đoạn trừ được rất nhiều tà kiến loại thô về một thực thể thường c̣n, về bản ngă, về “cái tôi”. Do sự thanh tịnh đó, vị này rất giống một vị thánh Tu-đà- hoàn thực sự. V́ vậy, vị ấy được gọi là vị tiểu Tu-đà- hoàn. 

Đây là một bài kệ khác rất hay: 

Imina pana nanena samannagato vipassako Buddhasasane laddhassasa laddhapatittho niyatagatiko. ~ Vsm 605 

Hành giả (vipassako) đă đạt (samannagato) đến sự hiểu biết này, với tuệ giác này (nanena), đă được nhẹ nhơm(laddhassasa), nghĩa là trước kia hành giả phải mang một gánh nặng, c̣n bây giờ đă được trút bỏ khỏi gánh nặng đó. Hành giả đă có một nơi để nương tựa (laddhapatittho), một tuệ giác sâu sắc để nương tựa. Một người đă đạt đến và duy tŕ được tuệ giác này được gọi niyatagatiko, nghĩa là người sẽ không bị tái sanh vào cảnh giới thấp kém (khổ cảnh). Sự tái sanh tuỳ thuộc vào phẩm chất tâm linh của chính bạn, phẩm chất của tâm thức bạn. Tuệ giác sâu sắc này có năng lực vô cùng lớn và đem lại cho bạn sự thanh tịnh về tri kiến, và do kiến tịnh, phẩm chất tâm của bạn trở nên cao thượng đến mức không thể tái sanh vào cảnh giới thấp hèn được nữa.

Cuộc đời bạn phụ thuộc vào phẩm chất tâm của chính bạn 

Hai cái đó phải tương xứng với nhau. Một phẩm chất tâm thấp kém, hạ liệt sẽ bị tái sanh vào một cảnh giới thấp kém, hạ liệt. Khi đă phát triển được một tuệ giác sâu sắc, một trí tuệ sáng suốt và có giới đức trong sạch, có sự thanh tịnh của một nội tâm trong sáng, của tuệ giác; khi đó phẩm chất tâm của bạn sẽ trở nên cao thượng đến mức không thể tái sanh vào khổ cảnh. Nhưng nếu để mất giới đức, nếu bạn để mất định tâm và trí tuệ th́ điều đó sẽ không chắc chắn. Nếu có thể duy tŕ tuệ giác này, nó sẽ đem lại cho bạn sự nhẹ nhơm, thanh thản vô cùng lớn bởi v́ bạn sẽ không c̣n bị rơi vào khổ cảnh nữa. 

Tôi có một người bạn cũng là một thiền sinh, không biết bây giờ có c̣n hành thiền nữa hay không v́ anh rất bận. Tôi hy vọng anh ấy vẫn tiếp tục. Một lần, anh ấy thể nhập được vào tuệ giác này, anh đến và nói với tôi rằng: “Trước khi tôi hiểu được điều này, tôi cứ nghĩ rằng khi muốn điều ǵ th́ tôi phải có bằng được nó, nếu không có nó tôi sẽ không thể hạnh phúc, tôi phải t́m kiếm và phải có bằng được.” Cái “phải” này, cái phải có là một cái gánh thật nặng. Bây giờ anh nói, Mặc dù tôi vẫn c̣n rất tham (thực tế anh ta cũng một người tham lam), nhưng mỗi khi tâm tham xuất hiện trong tôi, tôi biết được đây là tham, c̣n trước kia th́ tôi cứ nghĩ rằng tôi thực sự mong muốn cái đó.” Nếu bạn đồng hoá “cái tôi” này và cái mong muốn ấy với nhau, nó sẽ trở thành một rắc rối lớn. Nhưng khi bạn không tự đồng hoá ḿnh với nó, bạn thấy đó chỉ là một tiến tŕnh, một nỗi khát khao, một mong muốn mănh liệt đang trỗi dậy mà thôi. Anh ấy nói, “Bây giờ th́ tôi hiểu rằng: Không cần phải làm ǵ với nó cả.” Lúc đầu th́ anh nghĩ rằng nếu không đạt được cái đó, anh sẽ chẳng thể hạnh phúc. “Tôi muốn điều này và tôi sẽ hạnh phúc nếu tôi đạt được nó, nếu không có được nó, tôi sẽ không hạnh phúc.” Bây giờ th́ anh nói rằng: Chỉ cần quan sát nó và cảm nhận được một sự thanh thản, nhẹ nhơm vô cùng lớn. Chỉ cần làm được như thế thôi là bạn đă buông bỏ được 90% nỗi khổ của ḿnh rồi. Bạn có thể thấy được tâm tham và sự khao khát, mong cầu như chúng thực sự đang là.

Không có sự hỗ trợ của tà kiến về “cái tôi” th́ bất cứ loại phiền năo nào cũng sẽ bị suy yếu. Phiền năo sẽ trở nên rất mạnh mỗi khi chúng được “cái tôi” tiếp sức: “tôi tức giận, tôi buồn bực, tôi muốn trở thành người tốt”. 

Mỗi khi những suy nghĩ đó sanh khởi trong tâm, nếu bạn đứng lùi lại, tách ra, không tự đồng hoá với chỉ nh́n nó như một tiến tŕnh của tâm thức, nó sẽ mất sức mạnh. Bạn có thể duy tŕ được phẩm hạnh của ḿnh và sự quân b́nh, thanh thản trong tâm, và nếu ḿnh thấy thực sự cần, bạn sẽ t́m ra một phương cách thích hợp để có nó.

Giữa cái chúng ta cần và cái chúng ta mong muốn là một khoảng cách rất lớn. Cái muốn th́ vô cùng, cái thực sự cần th́ rất ít. 

Bạn sẽ không thể tin nổi là để sống hạnh phúc, chúng ta chỉ cần rất ít đến thế nào đâu. Một lần tôi đă kể về sư phụ tôi, chắc có bạn vẫn c̣n nhớ. Sư phụ sống một nơi rất nhỏ hẹp. Người là một nhà học vấn rất cao rộng uyên thâm, đặc biệt xuất sắc. Tôi thực sự may mắn là đă được gặp những vị thầy của ḿnh. Họ thực hành những ǵ họ dạy và dạy những ǵ họ thực hành. Họ không dạy những thứ trong trí óc hoặc từ sách vở, họ dạy từ chính cuộc đời của ḿnh. Sư phụ tôi sống một cuộc sống hết sức đơn giản. Chỗ ở của người trống không, chỉ là một căn pḥng trống. ngài ngủ trên một tấm ván gỗ, trải chiếc khăn để làm gối. Không có thảm, không có một thứ ǵ trên sàn nhà cả. Sư phụ trải một tấm y trên sàn và nằm ngủ tại đó. Không có một thứ đồ đạc ǵ, trong chỗ ở của thầy hoàn toàn không có một thứ ǵ cả. Nhiều người đến thăm thấy ngài chẳng một thứ cả. Họ nói nghe đồn vị này không có một thứ ǵ, nhưng chỉ khi đến tận nơi và xem xét chỗ ở của ngài, họ mới thấy họ thực sự không thật. Thầy ăn ngày một bữa, ăn chay, hầu như chỉ có một ít cơm, một ít salad cà chua, búp đậu, rất ít đậu luộc và một chút xíu các loại rau khác. Người ta dâng cúng sư phụ nhiều bánh và bích quy nhưng người không dùng tới. Sư phụ nói những thứ đó không hợp với bụng dạ sư phụ. Chỉ ăn ngày một bữa, thầy làm như vậy suốt hơn 40 năm và vẫn rất khoẻ. Tôi biết sư phụ đă 20 năm và ngài chỉ bị ốm có hai lần, nguyên nhân là bị ngộ độc thực phẩm. Một lần là do có người dâng sư phụ đồ ăn không hợp và lần thứ hai có người băm nhuyễn thịt lợn làm đồ ăn, người đó không biết sư phụ không ăn thịt cá nên trộn lẫn thịt vào rau mà ngài không biết. Sư phụ ăn món đó và bị tiêu chảy. Thật là kỳ lạ, nếu bạn kể với bác sĩ rằng, có một người chỉ ăn một bữa ăn đơn giản như vậy mỗi ngày mà vẫn khoẻ mạnh, th́ tôi nghĩ rằng 99% bác sĩ sẽ nói người ấy ắt sẽ bị đủ loại bệnh suy dinh dưỡng, nhưng sư phụ tôi lại không có một triệu chứng suy dinh dưỡng nào như thế cả. Tôi không thể thấy được sư phụ, nhưng sư phụ đă sống như vậy đấy. Tất cả tài sản của sư phụ chỉ đựng vừa trong một gói nhỏ. 

Giữa cái chúng ta muốn cái chúng ta cần là một khoảng cách vô cùng lớn, nhưng ngày nay người ta càng ngày càng gia tăng cái muốn của ḿnh lên nhiều hơn nữa. 

Nếu bạn hiểu tâm ḿnh, hiểu được tâm tham này, hăy từ bỏ nó. Bạn có thể khiến cuộc sống của ḿnh trở nên đơn giản và dễ dàng. Cuộc sống sẽ không c̣n là một gánh nặng nữa! 

Thực ra gánh nặng của cuộc sống không lớn đến vậy; Gánh nặng của ḷng tham lớn hơn nhiều. 

Tôi nghĩ có lẽ nên chấm dứt bài giảng hôm nay ở đây và để cho các bạn nêu một vài câu hỏi. Trong buổi học tới tôi sẽ nói về tuệ thứ ba và tuệ thứ tư. Tuệ thứ ba tuệ thứ rất quan trọng, tuệ thứ nhất và tuệ thứ hai cũng quan trọng. Chúng là nền tảng. Không hiểu được hai tầng tuệ đầu tiên chúng ta sẽ không thể tiến tiếp được. 

Hỏi và đáp: Nếu vẫn tiếp tục thực hành, bạn có thể ǵn giữ được nó. Chính sự thực hành sẽ giữ ǵn chúng. Một khi đă đạt được tuệ giác đó, bạn sẽ thấy được tầm quan trọng của nó. Tuệ giác đó cũng có thể giúp cho cuộc sống của bạn trở nên rất đơn giản. Khi không có tuệ giác, chúng ta làm cuộc sống của ḿnh trở thành phức tạp; bạn làm quá nhiều việc không cần thiết, suy nghĩ quá nhiều một cách không cần thiết, nghe, nh́n, ăn uống, đi lại đây đó suốt ngày.

Một khi đă đạt tới tuệ giác này, nó sẽ cho bạn thấy việc nào là quan trọng trong cuộc đời, việc nào là không quan trọng. Bạn sẽ nh́n nhận hai việc đó một cách khác hn. 

Hầu hết chúng ta thường gộp chung tất cả mọi việc với nhau và nghĩ rằng việc nào cũng quan trọng như nhau cả, chúng ta tham gia vào đủ mọi việc đến nỗi không c̣n thời gian cho chính ḿnh nữa, thậm chí hành thiền cũng không được. Rất nhiều nỗi lo toan, tính toán của chúng ta: Nào là con cái, vợ chồng, nào là công ăn việc làm là không cần thiết. Một khi đă được tuệ giác này, sự lo lắng của bạn sẽ c̣n rất ít, bạn chỉ c̣n lo tính những vấn đề trước mắt mà thôi. Chỉ khi đau ốm bạn mới lo tính đến điều đó và đi khám bác sĩ. Nhưng bạn sẽ không ngồi đó lo nghĩ đến những điều sẽ xảy ra trong 10 năm hay 30 năm nữa. Bạn chỉ làm những việc cần phải làm và bạn sẽ buông bỏ được rất nhiều, rất đơn giản.

Đó là lư do tôi nói: Hầu hết các thiền sinh, những thiền sinh thực thụ, những người ǵn giữ được tuệ giác sẽ sống một cuộc sống rất đơn giản; họ không thể sống phức tạp. 

Một người bạn của tôi một thiền sinh giỏi, nói rằng cô ta rất ngại mua sắm thêm đồ đạc mới trong nhà, bởi chính thứ đồ mới ấy sẽ choán chỗ trong tâm trí, sẽ làm cô mất thời gian với nó. Mọi người khi đi dạo phố, họ nh́n ngó những cửa hàng đầy những thứ đồ đẹp đẽ, những thứ đồ đạc hữu ích và tiện lợi… “tôi muốn cái này, tôi muốn cái kia…” không bao giờ ngừng lại. Cô này nói rằng mỗi khi đi xuống phố và nh́n vào các cửa hàng, cô thấy chỉ toàn là những đồ tạp nham, vô giá trị. Ai cần những thứ đó làm ǵ? Ai tạo ra những nhu cầu ấy cơ chứ? Người ta thường tạo ra nhu cầu và cố thuyết phục bạn tin rằng bạn thật sự cần đến nó và nếu bạn không có nó, bạn sẽ không hạnh phúc nổi; thế là bạn bị nó lừa bịp! Người nào hiểu được tiến tŕnh tâm này một cách sâu sắc sẽ biết rằng họ không cần những thứ đó. 

Bạn có thể bỏ bớt đi được rất nhiều thứ, hăy để cho cuộc sống của bạn thật đơn giản và bạn sẽ có thêm thời gian để hành thiền. Điều quan trọng là phải giữ ǵn được các tuệ giác đă có và cách duy nhất để làm được điều đó là tiếp tục thực hành. 

Hỏi & đáp: Tôi đă nói danh (nama) có rất nhiều nghĩa. Chúng ta đă biết rằng nama có nghĩa là danh xưng, tên gọi; rupa (sắc) có nghĩa là h́nh thể; nama là tiến tŕnh tâm, rupa là tiến tŕnh của thân. Hăy sử dụng nghĩa của nó tuỳ theo từng ngữ cảnh. Nama cũng rất nhiều nghĩa, rất dễ nhầm lẫn. Khi bạn biết nó có nhiều nghĩa và bạn biết sử dụng đúng nghĩa trong ngữ cảnh đó, th́ nó sẽ không làm bạn bị rối nữa. 

Hỏi đáp: Nói một cách ngắn gọn th́ tuệ giác đầu tiên là để thấy có một tiến tŕnh thân, nó không phải là một chúng sanh và có một tiến tŕnh khác, tâm, tiến tŕnh tâm lư. Hai tiến tŕnh này khác biệt nhau, tiến tŕnh thân không phải tiến tŕnh tâm, tiến tŕnh tâm không phải là tiến tŕnh thân nhưng cái này duyên cho cái kia. Ví dụ nghe một tiếng động, th́ tiếng động làm duyên cho cái nghe, lỗ tai làm duyên cho cái nghe, tiếng động tai, tức màng nhĩ,là sắc (rupa) thuộc tiến tŕnh thân. Bạn chú tâm lắng nghe tiếng động và tâm nghe (nhĩ thức) này là danh (nama). Một ví dụ nữa: Khi bạn muốn cử động, tác ư muốn cử động sanh khởi, đó là danh, rồi sau đó cơ thể mới cử động. Ngay cả nhắm mắt, mở mắt th́ cũng có tác ư nhắm hoặc mở. Tác ư và tâm sanh khởi cùng với nó là danh. Tuệ thứ hai rất gần với điều này. Bạn thấy rằng danh này sanh khởi bởi v́ có sắc này, và sắc này, tiến tŕnh thân sanh khởi v́ có tiến tŕnh tâm này, tuỳ thuộc vào từng trường hợp mà hai cái này làm duyên cho nhau. Thấy nhân duyên, thấy được nó sanh khởi là do nhân duyên, đó chính là tuệ thứ hai. Tôi chưa giảng về tuệ thứ ba và tuệ thứ tư, nhưng bởi các bạn muốn biết nên tôi sẽ giải thích sơ qua một cách rất ngắn gọn. Tuệ thứ nhất vô ngă (anatta), thấy danh và sắc như là một tiến tŕnh, không phải một chúng sanh, không phải là một thực thể, không phải một linh hồn, cái đó nghĩa là vô ngă. Nó không do ai tạo ra, do đó đây cũng Anatta-nana (Tuệ Vô Ngă). Tuệ thứ ba nh́n thấy cả ba đặc tướng thường (anicca), Khổ (dukkha) Vô ngă (anatta), thấy tiến tŕnh sanh và diệt. Chỉ đến tuệ thứ ba hành giả mới bắt đầu thấy được vô thường thực sự, sanh và diệt, nhưng chưa thực sự đến mức chín muồi. Tuệ thứ tư chú trọng nhiều hơn đến thường (anicca), không phải đến khổ (dukkha) ngă (anatta). Mặc dù cả ba đặc tướng đều đi cùng nhau, song tuệ này chú trọng nhiều hơn đến sự sanh diệt. Tuần tới tôi sẽ nói chi tiết hơn về tuệ thứ ba và tuệ thứ tư. Nhờ việc giảng đi giảng lại như thế này, tôi hy vọng là vấn đề sẽ trở nên rơ ràng hơn. 

Hỏi và đáp: Ngay cả đối với hai tuệ đầu tiên này cũng không thể đạt được chỉ nhờ đọc sách. Rất dễ hiểu khi nói về chúng, nhưng đó không phải là tuệ giác thực sự, đó chỉ là kiến thức. Khi chứng nghiệm nó bạn mới hiểu được, bởi v́ vào thời điểm đó bạn không c̣n suy nghĩ về nó nữa. Bạn thực sự thấy nó một cách rất ràng. Mức độ ràng, minh bạch của nó thật đáng kinh ngạc. 

Hỏi và đáp: Tôi biết một số người không đọc nhiều lắm cũng đă đạt tới tuệ thứ nhất, nhưng rất khó tiến vào tầng tuệ sâu hơn. Họ phải thấy được suy nghĩ chỉ là suy nghĩ, không có chúng sanh nào ở đó cả. Tôi biết một người như vậy. Anh ta chưa từng đến bất cứ một thiền viện nào cả, nhưng khi nói chuyện với tôi, cách anh ta nói về nó khiến tôi cảm thấy người này đă đạt được tuệ giác sâu sắc thực sự, rằng mọi thứ thật sự chỉ là tiến tŕnh. Anh ta nói chỉ có những suy nghĩ, chúng không phải là tôi, chúng đến rồi chúng lại đi.

Hỏi và đáp: Tiểu tuệ giác, theo như tôi hiểu ư của bạn là như vậy, đúng không… Đức Phật có nói về ba loại trí tuệ. Đầu tiên là bạn có hiểu biết nhờ nghe người khác nói hoặc đọc trong sách vở. Đó là một loại tiểu tuệ giác. Thứ hai là khi tư duy một cách sâu sắc, bạn đạt được tuệ giác sâu hơn thứ ba là loại tuệ giác thực sự của thiền tập. Hai mức trí tuệ đầu bạn chỉ cần đọc, nghe, suy nghĩ là có thể đạt được. Bạn có thể loại bỏ được khá nhiều tà kiến chỉ nhờ nghe, đọc sách vở và nghiền ngẫm, tư duy, đặt câu hỏi và làm sáng tỏ mọi điều. Đó là lư do v́ sao chúng ta đến đây để tiếp thu những trí tuệ loại nhỏ này. Nghe và đọc có thể đem lại cho bạn trí tuệ sâu sắc nhưng vẫn c̣n một bước nữa phải đi: Trí tuệ thiền tập(nana). Đây là cái đẹp trong giáo pháp của Đức Phật. Đức Phật cũng công nhận kiến thức hoặc hiểu biết thu được từ nghe, đọc và từ duy, và hầu hết mọi người chỉ dừng lại ở chỗ này, nhất là các triết gia phương tây, họ chỉ dừng lại ở đó. Đức Phật đă tiến thêm một bước xa hơn: Đó là trí tuệ thiền tập.

 

Hỏi: nhưng sẽ không thể có được tuệ giác thực sự sâu sắc nếu chúng ta không hành thiền? 

Đáp: Đúng thế! Thế nên đạo Phật mới có ư nghĩa thực tiễn và thiết thực. Nếu thực sự muốn hiểu được danh, sắc, thường, khổ, vô ngă th́ không có con đường nào khác.

 Con đường duy nhất là phải thực sự hành thiền, phải thực sự chánh niệm. Đó chính là chỗ thậm thân vi diệu của Phật Pháp. 

Hỏi và đáp: Thiền an chỉ định (samatha) là nền tảng, một nền tảng rất vững mạnh, rất tốt nếu bạn có thể phát triển được nó. 

Hỏi và đáp: Đức Phật hàng ngày đều nói về chánh niệm, và chánh niệm chính là thiền Vipassana. Đức Phật đă nhiều lần nói đi nói lại rằng phải nh́n một cách sâu sắc. Tứ Niệm

Xứ (satipatthana) chính thiền Vipassana. Bốn niệm xứ này có bốn loại đề mục khác nhau. Trong thực hành, chúng ta không thể phân loại rạch ṛi như vậy, bởi v́ chúng hoà lẫn với nhau. Khi bạn hành thiền với đề mục hơi thở th́ đó niệm thân (kayanupassana); và khi có suy nghĩ, đó chính niệm tâm (cittanupassana). Bạn cảm nhận một cảm giác trên thân, hoặc là dễ chịu hoặc khó chịu, đó là niệm thọ(vedananupassana). Có khi tâm bạn rất tĩnh lặng, và bạn thấy, à, đầy là sự tĩnh lặng, lúc đó đă trở thành niệm pháp(dhammanupassana). Khi bạn chánh niệm và biết ḿnh đang có chánh niệm, đó cũng là niệm pháp.

Nu là dạng rút gọn của từ anu, nghĩa là lập đi lập lại, passana nghĩa là nh́n: Nh́n đi nh́n lại nhiều lần. Khi thoáng nh́n qua cái ǵ đó, bạn sẽ không thực sự chắc chắn về cái ḿnh vừa nh́n thấy, nhưng nh́n đi nh́n lại nhiều lần, nó sẽ trở nên rơ ràng hơn. 

Có một vật đậy kín trong cốc, tôi mở cho bạn xem trong một giây ngắn ngủi và đậy ngay lại rồi hỏi bạn xem đó là cái ǵ, bạn sẽ không thể trả lời chắc chắn nó là cái ǵ. Nếu có thêm thời gian để nh́n lâu hơn, bạn sẽ biết nó là cái ǵ. Cũng như vậy, tâm phải luôn an trú, lặp đi lặp lại trên những tiến tŕnh này – thân, thọ, tâm, pháp.

Hỏi và đáp: Không có nhân duyên th́ không có cái ǵ sanh khởi được cả. Khi bạn có một cảm giác dễ chịu, th́ đó cũng là do nhân duyên… chẳng hạn, cái rơ nhất là cảm giác khó chịu. Nếu bạn tự véo ḿnh một cái th́ có một cảm giác khó chịu. Bởi v́ có cái véo, nên có cái xúc chạm, và bởi v́ nó cứng nên bạn cảm thấy đau. Khi ngồi trên một cái nệm thật mềm mại bạn thấy rất dễ chịu. Với con mắt, bạn chỉ có cảm giác trung tính, thọ xả, không dễ chịu hay khó chịu th́ khi đó là một tiến tŕnh khác, tiến tŕnh của tâm. Khi bạn thích cái ḿnh nh́n thấy th́ đó không c̣n là nhăn thức nữa. Cái thích này là một tâm khác. Khi bạn thấy một cái ǵ, cái thấy thuần tuư đó là nhăn thức, và ngay trong sát na đó, bạn c̣n không biết được ḿnh nh́n thấy cái ǵ nữa, chỉ có một cái thấy thuần tuư. Bước tiếp theo là xác định cái ḿnh thấy và rồi quyết định xem có thích nó hay không? 

Tâm là danh, đối tượng là sắc- trong trường hợp này là màu sắc. Khi nh́n th́ chúng ta chỉ nh́n thấy được mỗi màu sắc mà thôi, nhăn thức chỉ nhận biết được màu sắc. Bước tiếp theo diễn ra trong tâm là sự diễn dịch. Khi tâm diễn dịch, nó không c̣n là nhăn thức nữa mà là ư thức. Nhờ kinh nghiệm quá khứ bạn mới biết được cái ḿnh đang nh́n cái ǵ. Bởi trước kia bạn cũng thích, nên bây giờ bạn mới thích. Nếu nh́n thấy một vật hoàn toàn mới, không biết nó là cái ǵ, bạn sẽ không thể khởi yêu ghét. Bạn chỉ nghĩ: Cái này là cái ǵ nhỉ? Như vậy, nó là quy định quá khứ. Chẳng hạn ở Miến Điện rất nhiều người thích ăn loại mắm cá nghiền vụn như bột. Nó dinh dính và rất nặng mùi. Đó là quy định, là điều kiện hoá.

Thấy mà không lẫn với bất cứ điều ǵ, không lẫn với kư ức; đó chính là nhăn thức. Nó không yêu cũng chẳng ghét, chỉ có kư ức đi cùng với suy nghĩ khiến nó trở thành thích hay không thích.

Khi bạn nh́n thấy cái ǵ ḿnh thích, đó là do quy định quá khứ. Khi thấy một vật bạn chưa hề biết, bạn chỉ có mỗi cái tâm này: “ Nó là cái ǵ ấy nhỉ?” 

Bạn không quyết định có thích hay không. Yêu hay ghét là do bị điều kiện hoá. Chúng ta có thể hoá giải được nó. 

Chẳng hạn, bạn đă sống ở đây từ nhiều năm, song trước khi đến đây, có rất nhiều đều bạn chưa từng biết. Đến giờ, sau một thời gian dài đă quen với đồ ăn thức uống, với những điều tai nghe, mắt thấy ở đây bạn lại đâm ra thích chúng. Trước kia th́ bạn không biết là ḿnh thích hay không. khi chúng ta ăn món ǵ đó mà cũng không chắc là ḿnh có thích hay không nữa. Nhưng khi ăn lại nhiều lần, dần dần quen khẩu vị th́ lại bắt đầu thích. Chẳng hạn, trước khi đến đây tôi chưa bao giờ uống sữa đậu nành, bây giờ tôi thử uống một chút và bắt đầu quen với vị của nó. Tối bắt đầu thích và bây giờ tôi đang phát triển tâm tham của ḿnh lên. 

Hỏi và đáp: Đó là một câu hỏi rất hay. Chưa phát triển đầy đủ năng lực của tuệ thứ nhất th́ bạn chưa thể chuyển qua tuệ tiếp theo được; một tuệ giác này sẽ dẫn đến tuệ giác tiếp theo khi nó đă sẵn sàng, khi nó đă phát triển đầy đủ và đủ nội lực để dẫn đến tuệ giác tiếp theo. Nhưng chúng ta không thể tự chuyển sang tầng tuệ khác được. Chúng ta không thể làm được điều đó, nó sẽ tự xảy ra. Cám ơn bạn rất nhiều về câu hỏi đó.

Đừng vội vàng. Đứng lại tại chỗ ḿnh đang đứng và phát triển cho đủ độ sâu sắc, bạn không thể tự ép buộc ḿnh quá mức

 

 

---o0o---

 

 

Mục Lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05

 

 06 | 07 | 08 | 09 |10 |11

BACK

 

Home