|
Bản Đồ
Hành Tŕnh
Tâm Linh
Thiền Sư
Sayadaw U Jotika
Tỳ Kheo Tâm Pháp
dịch
Chương
5:
Tuệ giác
thứ nhất
và thứ hai: Hay
biết tâm và đối tượng; Phân biệt nhân duyên
Phần
1:
Tuệ
giác thứ
nhất và
thứ hai:
Hay biết tâm và đối tượng; Phân biệt nhân duyên
Thực sự th́ không có chúng
sanh nào cả. Có một loại
thực tại trong đó chúng ta nh́n nhận chúng sanh là một thực tế, đó
là sammuti-sacca (thực tại quy ước, hay thực tại chế định). Đừng lẫn
lộn hai thực tại này với nhau. Trong thực tại chế định có các chúng
sanh, có đàn ông, đàn bà. Khi chúng ta đă đến với paramatha (thực
tại chân đế), chúng ta hành thiền vượt qua được chỗ đó và chỉ nh́n
vào các tính chất thôi
Tuệ giác thứ nhất và thứ
hai: Hay biết tâm và đối tượng; Phân biệt nhân duyên
Xin chào mừng các bạn đă đến với lớp thiền, tôi rất vui khi gặp các bạn.
Một số bạn đă đến đây khá sớm và ngồi thiền. Thật vui khi nh́n thấy
mọi người đến đây
và hành
thiền như
thế này.
Điều đó
cho thấy
các bạn
thực sự
mong muốn tập thiền, các bạn thực sự yêu mến việc ḿnh đang
làm.
Tôi đến đây để chỉ giúp các
bạn, chứ không hẳn đến đây để dạy các bạn. Chỉ khi nào thực sự muốn
học th́ các bạn mới
học được.
Thực ra
không
ai
có thể dạy các bạn được cả,
đây là điều rất quan trọng và phải hiểu.
Vào bài giảng ngày hôm nay,
tôi muốn bắt đầu bằng một câu hỏi, một câu hỏi rất đơn giản và câu
trả lời cũng rất đơn giản. Nhưng hăy suy nghĩ một lúc đă. Gánh nặng
lớn nhất mà chúng ta đang mang là ǵ? Hăy dành vài phút để suy nghĩ
về câu hỏi đó. Hỏi đúng là điều quan trọng và sống với câu hỏi cũng
là một điều rất quan trọng. Ư tưởng này: Sống với câu hỏi, là rất
quan trọng. Chỉ khi nào chúng ta sống với câu hỏi chúng ta mới có
câu trả lời sống động, và rồi chúng ta lại sống với câu trả lời đó.
Chỉ khi đă sống với câu trả lời, chúng
ta mời t́m
ra được
một câu
hỏi
khác sâu sắc và đầy ư nghĩa. Và rồi lại sống với câu hỏi đó.
Sống với câu hỏi là cách
tốt nhất để t́m ra câu trả lời.
Các bạn có câu hỏi nào không? Các bạn có sống với nó không? Bất cứ câu
hỏi nào cũng được, nhưng câu hỏi đó phải
xuất phát từ cuộc sống
của bạn, nó phải
xuất phát từ trái tim bạn. Đó phải là một câu hỏi sống, không phải
chỉ là một câu hỏi lư thuyết hay câu hỏi giả định; nó phải là một
cái ǵ rất thực.
Người có câu hỏi thực và sống với câu hỏi đó sẽ sống một cuộc đời thật
nghiêm túc,
thật ư
nghĩa và
sâu
sắc.
Sau khi đă sống với nó một thời gian dài, cuộc sống của bạn sẽ cho bạn
câu trả lời; bạn không thể t́m được câu trả lời thực từ sách vở hay
bất cứ người
nào.
Họ chỉ có thể cho bạn những lời gợi ư mà thôi, nhưng để thấy được sự
thật của câu trả lời bạn phải nh́n lại vào cuộc đời ḿnh.
Sự thật của câu trả lời
không nằm ở ngôn từ, nó nằm trong chính cuộc sống của bạn.
Xin hỏi lại, gánh nặng lớn nhất mà các bạn đang mang là ǵ? Bạn đă bao
giờ tự
hỏi chính
ḿnh câu
hỏi đó
chưa?
Nếu chưa, th́ bây giờ hăy tự hỏi ḿnh đi, cái ǵ là gánh nặng lớn nhất
mà ḿnh đang mang? Bạn có thể đoán ra được không?
Đúng vậy, gánh nặng lớn
nhất chúng ta đang mang chính là
“cái tôi”
Bạn có cảm thấy được điều đó không? Nếu buông bỏ được
“cái tôi”
đó, bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhơm ngay. Đó là gánh nặng lớn nhất! V́ vậy,
trong thiền, việc đầu
tiên cần
học là phải
thấy rằng chỉ có các hiện tượng tự nhiên đang hiện hữu: Chỉ
thuần tuư là những hiện tượng của thân, tâm mà thôi. Một hiện
tượng thuộc
về tâm
rất khác
biệt so với một hiện tượng của thân hay
sắc.
Tuệ giác đầu tiên là thấy
chỉ có các hiện tượng hiện hữu, không có ǵ là thường hằng, vĩnh
cửu, không có chúng sanh, không có thực thể nào, không có
“cái tôi”, không bản ngă, không có người nào, chỉ có
những hiện tượng thuần tuư mà thôi. Điều đó mang lại
một sự
nhẹ nhơm
vô cùng,
nó làm
ta trút nhẹ tâm tư. “Cái tôi”
này là sản phẩm của tâm trí, nó tự tạo ra gánh nặng cho
chính nó. Tầng thánh
đầu tiên là đoạn trừ hoàn toàn cái tôi này, hay c̣n gọi là tà
kiến chấp ngă (thân kiến) –
sakkaya – ditthi. Tầng thánh này chưa
đoạn trừ
được
tham, đây
là
điều quan trọng cần ghi nhớ, và thậm chí sân cũng chưa được đoạn trừ, cả tật
ganh đua, kiêu hănh, ngă mạn nữa. Nó đoạn trừ tà kiến về
“cái
tôi”. Đôi khi mọi người nói,”
Mấy người này hành thiền kiểu ǵ mà vẫn sân thế!”
Đúng,
họ vẫn
c̣n rất
tham, nhưng
cái tham
đó không c̣n sự hỗ trợ của
“cái tôi”. Mặc dù tham, nhưng họ sẽ không đi ăn cắp hoặc lừa đảo người ta. Họ
có được cái ḿnh muốn một cách chính đáng, bằng phương thức chính
đáng. Bây giờ tôi sẽ nói sơ lại những điều đă giảng tuần trước và đi
tiếp từ đó.
Nanarupanam
yathavadassanam,
ditthivisuddhi nama ~Vsm 587
Nanarupanam
là
một
từ
ghép, nama và
rupa
(danh và sắc).
Nama (danh) là một tiến tŕnh, không phải là một thực thể hay một
chúng sanh nào cả, nó không thường c̣n, vĩnh cửu. Nó luôn luôn có
mặt ở đó. Nama
(danh) là một cái ǵ đó luôn sanh khởi.
Rupa (sắc)
cũng phải là một vật. Thực chất
rupa là một
tính chất. Hăy ghi nhớ điều này. Mỗi khi dùng từ sắc, chúng ta không
thể nói đến một vật nào mà
đang nói về tính chất. Nóng là một tính chất, không phải là một vật
thể, lạnh không phải là một vật thể, nó là một tính chất, một tiến
tŕnh. Nó là một thứ ǵ đó luôn luôn diễn tiến
không ngừng. Nó có tính liên tục nhưng
luôn sanh
diệt, sanh
và diệt.
V́
thế nó được gọi là một tiến tŕnh. Hai tiến
tŕnh này,
danh và sắc
(nama vàrupa)
hoàn toàn
khác nhau, không phải là một. Đôi khi tôi nghe có người nói
về cái bất nhị
(không
hai), rằng không có cái ǵ gọi là danh hay sắc cả, cả hai đều là
một. Điều đó không đúng. Chúng không phải là một. Chúng rất khác
nhau. Danh(nama) là một loại tâm, hay biết. Sắc
(rupa) chỉ
là một đối tượng không có tính chất hay biết này, nó không biết ǵ
cả. Danh là tính hay biết, sắc không hề hay biết ǵ cả, nó chỉ là
tính chất thuần tuư của vật chất mà thôi. Chúng là hai thứ khác
nhau, tâm và vật chất.
Trong quá tŕnh hành thiền, tâm trở nên rất tĩnh lặng, mặc dù đôi lúc
vẫn có một vài ư nghĩ
thoảng đến và đi, song tâm vẫn an trụ trên đề mục trong một thời
gian dài. Nó bắt đầu tập trung vào một việc; nó không tập hợp các sự
việc lại với nhau nữa. Tính không tập hợp, ráp nối các sự việc lại
với nhau này rất quan trọng.
Khi tập hợp, ráp nối các sự
việc với nhau chúng ta có một khái niệm, một khái niệm tục đế
pannatti. Khi không tập hợp, chắp nối nữa, chúng ta nh́n sự việc
chỉ đơn thuần như chúng đang là. Khi đó chúng ta sẽ thực sự
thấy được tính chất, hoặc là danh (nama) hoặc là sắc (rupa)
Khi tâm trở nên thật tĩnh lặng và thấy được tính chất thuần tuư của sự
vật, chúng ta có thể thấy nó đơn thuần chỉ là các tính chất, không
phải là một chúng sanh nào, không phải đàn ông, không phải đàn bà.
Đây là tuệ giác đầu tiên, nó rất quan trọng. Trừ phi chúng ta đạt
được tuệ giác thứ nhất này, bằng không không có hy vọng đạt được một
tiến bộ nào. Chúng ta sẽ thấy: Có cái tâm này hay biết đối tượng
này. Ví dụ: Tiếng động này chẳng hạn, khi tôi tạo ra tiếng động,
tiếng động chỉ đơn thuần là tính chất vật lư, nó là một tiến tŕnh.
Bạn có thể nghe tiếng chuông ngân lên rồi tắt dần.
Trước khi tôi đánh chuông th́ chưa có sự hay biết về tiếng chuông này.
Sự hay biết này xuất hiện bởi v́ có tiếng chuông. Bạn có thể thấy
hai cái này rất rơ, rất tách biệt với nhau. Và bây giờ th́ sự hay
biết mới xuất hiện. Nó
không có sẵn ở đó để luôn hay biết tiếng chuông. Nó không đứng đó để
chờ nghe tiếng chuông. Sự hay biết xuất hiện khi tiếng chuông xuất
hiện. Trước khi có tâm biết tiếng chuông, có một tâm hay biết khác,
nó cũng là nhân duyên để cho tâm hay biết tiếp theo xuất hiện. Nhưng
chúng không phải là một. Chúng ta cứ nghĩ rằng luôn có một cái ǵ đó
nguyên vẹn không đổi trong mọi lúc, luôn có một cái ǵ đó ở đó. Đây là
cách chúng
ta tạo
ra ư
niệm
về tính liên tục ở trong tâm. Các suy nghĩ tạo nên tính liên tục và
chúng tạo nên ư niệm về sự nguyên vẹn, không thay đổi này. Khi chúng
ta dừng lại mọi suy nghĩ
và chánh niệm, tập trung và chú ư vào bất cứ cái ǵ đó đang diễn ra
trong hiện tại, ngay bây giờ chúng ta thấy có cái ǵ đó đang sanh
khởi. Trước kia nó không
có ở đó. Nó đang hiện hữu ngay trong hiện tại.
Nanarupanam
yathavadassanam, ditthivisuddhi nama
(thấy danh sắc
một cách đúng đăng như chúng thực sự đang là được gọi là kiến tịnh).
Yathava nghĩa là một cách đúng đắn, một cách chân
chánh, thích hợp,
như nó
đang là.
Dassnam là
thấy. Thấy
danh
và
sắc
(Nama và rupa), các
hiện tượng tâm lư và vật lư như chúng đang là, thấy một cách đúng đắn, thấy một
cách thích hợp và chân chánh th́ được gọi
là ditthivisuddhi (kiến tịnh).
Ditthi nghĩa là
kiến (chữ kiến trong chánh kiến). Visuddhi
là thanh tịnh, thanh lọc. Và chử nama thứ hai ở đây có nghĩa
“được gọi là”.
Khi thấy từ
Nama trong
tiếng Pali chúng ta phải nhớ rằng chúng có rất nhiều nghĩa, trong
mỗi ngữ cảnh lại mang một nghĩa khác nhau. Trong một số trường hợp,
có người dịch nama- rupa
là tên gọi và h́nh thể (name and form),
dịch như
vậy là sai. Tôi đă trao đổi vấn đề
này với
đại
đức
Nanavisuddhi và chúng tôi phải bàn mất hai ngày mới xong. Chúng tôi đă
xem xét lại rất nhiều cách dịch khác nhau của từ này.
Nama không có nghĩa là tên gọi. Tên gọi là một khái niệm.
Nhưngnama cũng có
một nghĩa là tên. Và trong trường hợp khác nó là “có nghĩa là”. Chữ
nama ở đầu câu có nghĩa
là tiến
tŕnh của
tâm. Chữ nama
thứ hai ở cuối câu nghĩa là “có nghĩa là”.
Vậy
câu Pali
này dịch
ra như
sau: ditthivisuddhi (kiến tịnh) là thấy danh sắc như chúng đang là, thấy một
cách đúng đắn, thấy một cách chân chánh và thích hợp mọi hiện tượng
của thân tâm.
Như vậy nama-rupa
không có
nghĩa là tên gọi và h́nh thể. Tên gọi là một khái niệm. H́nh thể, h́nh
dáng cũng đều là những khái niệm. Chúng không phải là thực tại.
Khi chúng ta hành thiền và
phát triển Tuệ Phân biệt Danh Sắc (nama –rupa pariccheda –nana),
điều đó không có nghĩa chúng ta biết tên gọi và h́nh thể; mà là
chúng ta thấy được tiến tŕnh của thân và tâm. Cách dịch sai lầm đôi
khi làm chúng ta hiểu sai rất nhiều, gây nhầm lẫn và rối tung. Chẳng
hạn chúng ta đang ngồi thiền, hít vào, thở ra, lúc đầu th́ chúng ta
biết h́nh dáng cơ thể ra sao, h́nh dáng của cái mũi thế nào, thậm
chí đôi khi chúng ta c̣n tưởng tượng
ra h́nh
dáng của
luồng
không
khí dài như một sợi dây, đang ra vào ra vào. Cái “dài” này là cái bạn
tưởng tượng ra. Ở đâu ra mà có luồng không khí dài ra vào? Không có
luồng không khí dài nào cả. Nhưng đôi khi ta có cảm giác là như thế.
Dần dần chúng ta sẽ
vượt qua
được tất
cả những sự
tưởng tượng về h́nh dáng và tên gọi này và
sẽ đạt đến chánh niệm đơn thuần trên các cảm giác,về sự cọ
xát, xúc chạm, đưa đẩy qua lại (của luồng không khí
ra vào lỗ mũi) và sự xúc chạm này là một tiến tŕnh rất đơn
giản. Thế mà ngày trong cái tiến tŕnh đơn giản này, chúng ta vẫn
chấp giữ tà kiến trong đó.
Để thanh lọc tà kiến, chúng ta phải
thấy rằng
có một
cái tâm
hay biết
cảm
giác này. Cảm giác đó có thể là nóng hay lạnh. Khi chúng ta thở vào, hơi
thở hơi mát, lạnh lạnh, thở ra hơi nóng nóng. Cái nóng, mát, lạnh,
xúc chạm, đưa đẩy ra vào này… bạn chỉ chánh niệm hay biết nó, không
suy nghĩ về nó. Chúng ta thấy rằng có hai tiến tŕnh khác nhau đang
diễn tiến, không có
tiến
tŕnh nào trong đó là một chúng sanh, một thực thể cả, và không có
tiến tŕnh nào kéo dài. Chúng sanh lên bây giờ và cũng diệt mất bây
giờ.
Trong giai đoạn dầu, chúng
ta không chú trọng đến sự sanh và diệt, chúng ta chỉ chú trọng đến
các tiến tŕnh thuần tuư. Tiến tŕnh vật lư này diễn ra không có
tác ư,
không do
ư muốn
của ai
cả.
Chẳng hạn, tóc không hề ư thức được rằng nó đang nằm ở trên đầu và tóc
cũng chẳng muốn đi đâu cả; vậy th́ ai muốn ở đây? Chính là Tâm. Cái
phần vật chất này không có ư muốn, không có tác ư. Chỉ thấy rằng tâm
đi đến đối tượng và với tới đối tượng. Chúng ta muốn nghe nên chú ư
lắng nghe, và cái chú ư này chính là một đặc tính của danh
(nama), nắm
bắt đối tượng, hay biết đối tượng. Có một cái không hay biết được
cái ǵ cả, đó là tiến tŕnh vật lư của thân, ngoài tiến tŕnh thân
ra c̣n có một tiến tŕnh khác để hay biết đối tượng. Hai tiến tŕnh
này hoàn toàn khác nhau. Danh
(nama) sanh
khởi bởi v́ có đối tượng. Không có đối tượng
th́ không
thể có
bất cứ
một tâm
nào
sanh
khởi. Tâm
không luôn
sẵn sàng
có mặt ở đó.
Chẳng hạn khi tôi gơ vào
chuông thế này, tiếng chuông không đi ra từ chiếc dùi này, nó cũng
chẳng đi ra từ cái chuông. Điều đó có nghĩa rằng, tiếng chuông không
phải lúc nào cũng luôn có mặt ở đó. Tuỳ thuộc vào việc tôi gơ mạnh
hay nhẹ mà tính chất của tiếng chuông sẽ khác; nó không luôn ngồi
chờ ở đó mà chạy ra từng tiếng, từng tiếng một. Nếu nó luôn chờ sẵn
ở đó để đi ra, th́ dù tôi gơ mạnh thế nào đi chăng nữa, tiếng chuông
chạy ra phải giống y như nhau. Nếu tôi thay đổi nhân duyên của nó
th́ quả cũng sẽ
khác liền.
Như vậy,
tiếng
chuông
không ở cây dùi, không ở cái chuông,nó cũng không chờ sẵn ở đó. Nó xảy
ra khi cây dùi đánh vào cái chuông, điều đó nghĩa là tất cả mọi
việc đều là mới. Hiểu được rằng nó hoàn toàn mới mẻ là rất
quan trọng. Cũng giống như vậy đối với cái nh́n, khi không có tâm
chánh niệm, khi nhắm mắt, bạn không nh́n thấy cái ǵ trước mặt.
Khoảnh khắc bạn mở mắt
ra,
có một cái ǵ đó đập vào mắt bạn và cái tâm hay biết- nhăn thức này
sanh khởi. Nó sanh khởi vào đúng khoảnh khắc đó; bạn có thể thấy rơ
hai sự việc khác nhau, đối tượng và tâm hay biết. Điều này được gọi
là Tuệ Phân biệt Danh Sắc
(namarupa-paricheda – nana).
Một ví dụ khác, khi bạn
muốn cử động, trước hết tâm thức sanh khởi tác ư muốn cử động rồi
sau đó tay hoặc chân mới đưa ra. Trong trường hợp tiếng động, th́
tiếng động là tiền đề cho tâm sanh khởi, bởi v́ có tiếng động nên
mới có tâm biết sanh lên. Trong trường hợp cử động th́ tác ư
muốn cử động là tiền đề
cho cử động diễn ra, tiến tŕnh của thân tâm làm tiền đề của tâm và
tiến tŕnh của thân. Nó vận hành theo
cả hai
chiều. Khi
đói bụng,
chúng ta muốn ăn,
chúng ta lấy đồ ăn và bỏ vào miệng. Nhưng thực sự th́ có ai đang ăn?
Chức năng ăn được thực hiện do thân, do tiến tŕnh của thân. Tay
cầm thức
ăn và đưa
lên
miệng. Nếu
bạn
không đưa tay mà chỉ ngồi đó rồi bảo thức ăn đi vào miệng ḿnh, nó sẽ
chẳng chịu đi đâu.
Tâm trù định và đưa ra
hướng làm, đưa ra chỉ dẫn cho thân; như vậy tâm dự định và thân ăn.
Thân
và tâm
ăn, không
phải là
“tôi” ăn,
thân và tâm ăn nhưng chúng ta cứ nghĩ rằng tôi đang ăn. Sự thực chỉ
có các tiến tŕnh thân tâm
đang ăn. Nếu bạn hiểu được đó chỉ là một tiến tŕnh, bạn đă
có được sự thanh tịnh về tri kiến (kiến tịnh).
Khi bạn muốn uống th́ đó
cũng là cùng một
tiến tŕnh
như vậy.
Khi bạn
muốn
đi cũng vậy. Bạn đứng đă khá lâu và cảm thấy mơi mệt, chân tê cứng và
muốn đi, tác ư muốn đi sanh khởi “ đi, đi”,
nó thúc đẩy thân bạn đi. Bạn quyết định bước, nhấc chân
lên, đưa ra phía trước và đặt xuống… như vậy, thân và tâm đang đi,
không phải là một chúng sanh nào đang đi cả. Thấy theo cách đó là
Tuê Phân biệt Danh Sắc (namarupa- paricheda –nana).
Thực sự th́ không có chúng
sanh nào cả. Có một loại thực tại trong đó chúng ta nh́n nhận chúng
sanh là một thực tế, đó làsammuti-sacca (thực tại quy ước, hay thực tại chế định). Đừng lẫn lộn
hai thực tại này với nhau. Trong thực tại
chế định
có các
chúng sanh,
có
đàn
ông,
đàn bà.
Khi chúng
ta đă
đến với
paramatha (thực
tại chân
đế), chúng ta
hành thiền vượt qua được chỗ đó và chỉ nh́n vào các tính chất thôi.
Nhưng khi hành thiền th́ chúng ta không được suy nghĩ về điều đó
nữa. Điểm quan trọng là bạn phải cố gắng và tư duy trước khi hành
thiền, nhưng khi đă ngồi vào thiền th́ không được nghĩ về danh sắc
(nama-rupa) nữa. Khi bạn trở nên chánh niệm hơn, tâm an trụ nhiều hơn trong tiến
tŕnh, nó sẽ xuất hiện một cách tự nhiên, một cách tức thời, và tuệ
giác sẽ có mặt một cách rất rơ ràng: Hai tiến tŕnh đang diễn tiến.
Hiểu hoặc thấy được tiến
tŕnh danh- sắc (nama-rupa)
một cách đúng
đắn,
một cách thích hợp nghĩa là thấy được rằng:“Đây là danh, đây là tiến
tŕnh tâm”, điều này có nghĩa đây không phải là một chúng sanh
nào cả. Đây là tiến
tŕnh của
tâm. Và danh
(nama)nghĩa
là chính tiến tŕnh này. Nó không lẫn lộn với tiến tŕnh của thân,
không hoà trộn vào nhau, không thêm vào. Thông thường chúng ta hay
trộn lẫn mọi thứ vào với nhau và chúng ta có một ư niệm mơ hồ về các
sự việc. Nhưng ở đây chúng ta thấy một cách rất rơ ràng, minh bạch:
Đây là danh, chỉ là danh
và không lẫn lộn với sắc. Mặc dù chúng có liên quan với nhau, nhưng
chúng không phải là một, chúng là hai tiến tŕnh riêng biệt. Không
có ǵ
hơn thế.
Danh chỉ
là
danh
mà thôi. Không có ǵ hơn thế, và “Đây là sắc, thuộc thân vật lư”:
nóng, lạnh, cử động, sức ép, nặng nhẹ, bất cứ cái ǵ, chúng
chỉ là tiến tŕnh của thân. Đến như thế này là thuộc về thân,
không có ǵ hơn. Đến như thế này là thân vật lư. Thân không trộn lẫn
với tâm, mặc dù nó có liên
quan đến
tiến tŕnh
của tâm.
“Không
có ǵ hơn thế.”
“Chỉ thấy rơ đặc tính vốn
có của tự nhiên”,
tự nhiên có rất nhiều
đặc tính khác nhau; bạn chỉ cần thấy rơ các đặc tính khác biệt này.
Hăy đoạn trừ phần lậu hoặc khi nh́n một tiến tŕnh như một cái ǵ
đó, như bản ngă hay “cái tôi”,
hăy đoạn trừ nó. Đoạn trừ lậu hoặc
hoặc tà kiến
về một
cái tôi
“ngă
kiến”, hay tà kiến
về một linh hồn, một chúng sanh, một thực thể nào đó. Đoạn trừ tà
kiến chấp rằng có một linh hồn cần
được hiểu
là quá
tŕnh thanh
tịnh tri kiến (kiến tịnh). Khi hành giả đă đạt đến
tuệ namarupa
–paricheda –
nana (Tuệ Phân
biệt Danh Sắc), tầng tuệ giác này chính là kiến tịnh(ditthivisuddhi).
Kiến tịnh xuất hiện cùng với tuệ giác đầu tiên.
Tuệ giác thứ hai là Tuệ
Phân biện Nhân
duyên (pacaya-pariggaha
– nana).
Paccaya có nghĩa là nhân duyên,
pariggahanghĩa là nắm
bắt. Nana
nghĩa là tuệ. Từ nắm bắt trong tiếng Anh có nhiều nghĩa.
Một trong những
nghĩa đó
là nắm
cái
ǵ
trong tay, giữ chặt nó, nhưng nó cũng có nghĩa là hiểu biết. Như vậy,
hiểu biết, nắm bắt được nguyên nhân của các hiện tượng, thấy rơ,
hiểu rơ nhân duyên của chúng, thấy được mối liên quan giữa chúng với
nhau với nhau. Đầu tiên
chúng ta thấy đối tượng chỉ là đối tượng và tâm chỉ là tâm, rồi dần
dần khi tuệ giác này chín muồi, không suy nghĩ về nó, hành giả bắt
đầu nhận ra rằng: Do có đối tượng này nên mới có tâm này sanh khởi.
Đối tượng này chính là nhân
sanh khởi tâm này. Tâm không tự nó sanh khởi, không ai tạo ra nó cả.
Tâm không thể sanh khởi mà không có nguyên nhân; nó
sanh khởi
chỉ v́
có một
nguyên
nhân khiến nó sanh khởi. Tuỳ thuộc vào tŕnh độ nhận thức hay hiểu biết
của hành giả mà mỗi người nh́n thấy được một khía cạnh khác nhau của
nhân duyên, có người thấy được nhiều, có người thấy được ít, nhưng
điều đó không quan trọng. Vấn đề thực sự là ở chỗ: Không cần biết
cái ǵ sanh khởi, miễn là bạn biết nó sanh khởi do một nguyên nhân.
Lấy ví dụ tiếng động, điều này rất rơ ràng. Nhưng chúng ta nghĩ
rằng: Tất cả mọi người ai cũng biết điều đó, tại sao chúng ta phải
đi hành thiền để làm ǵ? Không phải chúng ta hành thiền để phát hiện
ra điều đó. Chúng ta chỉ biết điều đó trên bề mặt kiến thức thôi, nhưng thực tế
th́ khác xa.
Hiểu biết về kiến thức
không loại bỏ được ngă kiến. Chúng ta nghĩ rằng chính ḿnh nghe
tiếng động,
“Tôi nghe
thấy tiếng động”.
Nhưng trong thiền
th́ “cái tôi” này không c̣n nữa.
Bạn thấy rơ tâm biết này sanh khởi ngay trong hiện tại, bởi v́ có tiếng
động này, không có
“tôi” nghe. Có lúc bạn
hiểu được rằng: Bởi v́ có tai nên có cái nghe; cái nghe là một tâm.
Tiếng động và tai, màng nhĩ là một bộ phận cảm nhận của tai, là nhân
tạo ra cái nghe. Khi đă hành thiền một thời gian, bạn sẽ hiểu rằng: “Chỉ khi nào chú ư, tôi mới nghe được tiếng động”,
tôi sử
dụng chữ
“tôi” ở
đây theo
nghĩa
quy
ước thông thường. Xung quanh chúng ta có rất nhiều tiếng động, tiếng
người nói v.v..; nhưng chúng ta không chú ư th́ cũng không nghe
thấy.
Chúng ta hiểu được
rằng: Tâm hướng về đối
tượng, tác ư hướng tâm (manasikara); không có sự chú ư chúng ta
không thể nghe được.
Khi ngủ, mặc dù màng nhĩ
vẫn hoạt động, xung quanh vẫn có tiếng động nhưng chúng ta không
nghe được, bởi v́ không chú ư. Đây là
một
ví dụ rất rơ. Ngay cả khi
chúng ta ư thức và đang
rất tập trung đọc sách, nếu có ai đó bên cạnh gọi tên, chúng ta vẫn
không nghe thấy bời
v́ chúng
ta không
chú
ư.
Tiếng động, tai thâu nhận và sự chú ư tạo duyên cho cái nghe xảy ra.
Cũng tương tự đối với cái nh́n, chúng ta nghĩ rằng chính ḿnh nh́n,
nhưng khi đă phát triển được tuệ giác này, khi nh́n chúng ta
biết rơ
là có
tâm hay
biết, chúng ta biết là có đối tượng nên mới có tâm biết này.
Sau một thời gian, không hề suy nghĩ, hiểu biết đó sẽ đến với bạn:
Bởi v́ đôi mắt có khả năng cảm nhận nên chúng ta thấy. Đôi khi
có người đến nói với tôi: “Thật là kỳ lạ, chúng ta nh́n”
Bỗng nhiên người đó phát hiện ra một điều đáng ngạc nhiên là
chúng ta nh́n. Bạn đă bao giờ kinh nghiệm được điều đó chưa? Điều đó
thật là tuyệt vời,
thật là
kỳ diệu;
đột
nhiên chúng ta cảm nhận sự việc theo một cách hoàn toàn mới.
Tại sao lại không nh́n? Một
triết gia, Wittgenstein, bạn đă bao giờ nghe đến tên ông ta chưa?
Ông cùng thời với Bertrand Russel và thay thế Russel giữ chức giáo
sư. Wittgenstein Đă nói nên một điều thật sâu sắc và ư nghĩa, ông
nói: “Tại sao không
phải là vô thể,
thay v́
hữu thể?” Nếu bạn thực sự hiểu được điều này, có lúc bạn sẽ rất sốc;
thật đáng ngạc nhiên làm sao, khi cứ luôn luôn phải có một cái ǵ
đó! Thật đáng ngạc nhiên khi có những nụ hoa, có những hàng cây, có
những con côn trùng và muông thú, có con người và có
các hành
tinh. Sao
chẳng phải
là
không có ǵ nhỉ? Tại sao cứ phải có một cái ǵ đó hiện
hữu? Chính cái
ǵ đó ấy mới thực là điều đáng ngạc nhiên. Cũng tương tự như thế,
hành giả bắt đầu phát hiện ra rằng: Cái nh́n đang diễn ra và điều đó
thật đáng ngạc
nhiên. Hành
giả thấy rằng nh́n là một tiến tŕnh mời mẻ, một kinh nghiệm mới mẻ. Hầu hết thời gian chúng ta chỉ loay hoay, bận rộn làm công việc
này việc kia một cách rất vô thức, như trong một giấc mơ; rồi bỗng
nhiên chúng ta tỉnh dậy và thấy rằng… có một cái thấy
và điều này thật ngạc nhiên làm sao. Bạn cảm nghiệm cái nh́n
như một điều hoàn toàn mới mẻ. Nó đập vào bạn, quất vào bạn. Tôi cảm
thấy rất
vui khi
có người
đến và
nói
rằng:
“Ô, thật đáng ngạc nhiên, chúng ta nh́n, chúng ta nghe,
chúng ta suy nghĩ.” Tại sao điều đó xảy ra?
Etass’eva pana namarupassa
passayapariggahanena Tisu addhasu kankham vitaritva thitam nanam
Kankhavitarana –visuddhi nama.
Etass’eva pana namarupassa:
Về cái
danh sắc mà chúng ta vừa nói đến
trong vài khoảnh khắc trước đây.
Paccayapariggahanena:
Thấy
được nguyên nhân của nó
Tisu addhasu:
Quá khứ,
hiện tại và tương lai. Khi
hành thiền
chúng ta
chỉ
chú tâm vào hiện tại mà thôi. Chúng ta không quan tâm đến quá khứ bởi v́
nó đă đi qua mất rồi. Chúng ta không chú ư đến tương lai v́ tương
lai th́ chưa đến. Nhưng khi hiểu được hiện tại một cách đúng đắn th́
chúng ta hiểu được quá khứ và tương lai.
Kankham vitaritva:
Khi thấy
rơ danh sắc sanh khởi do nhân duyên, bởi v́ có nguyên nhân khiến nó
sanh khởi, thấy rơ
điều này
sẽ xoá
sạch mọi
hoài nghi;
kankham
nghĩa là
hoài nghi. Vitatitva
nghĩa là
vượt qua. Chúng ta vượt qua hoài nghi. Chúng ta có những hoài nghi
nào? Chúng ta nghĩ về “cái tôi”
này,
“Trong quá
khứ có tôi
không? Trong
tương lai
tôi sẽ
sinh
về đâu?” Nhưng khi đă
thấy rơ danh- sắc, tiến tŕnh và nguyên nhân làm cho danh sắc
sanh khởi, chúng ta sẽ hiểu được rằng: Cái đang diễn ra trong
hiện tại cũng đă diễn ra trong quá khứ và cũng sẽ diễn ra trong
tương lai, nếu có đủ nhân duyên cho nó diễn ra, nếu không có nhân
duyên nó sẽ không xảy
ra.
Khi chúng ta nêu câu hỏi:
“Trong quá khứ tôi ở đâu?”, đó là một câu hỏi vô nghĩa.
“Liệu tôi sẽ c̣n quay lại nơi đó nữa không?”
Một số
người hỏi cái ǵ xảy ra đối với một vị A la hán sau khi chết?
Nếu chúng ta nêu câu hỏi này với ư niệm về một con người, câu
hỏi này là một câu
hỏi vô
nghĩa.
Trong
thực tế không có cái ǵ là “tôi”
cả, mà chỉ có những tiến tŕnh. Nếu bạn hiểu cái tiến
tŕnh đang diễn ra bây giờ và nhân duyên khiến nó diễn ra như vậy,
bạn sẽ biết rằng: Bất kể những ǵ xảy ra, dù chúng ta gọi một người
là đàn ông, đàn bà, mẹ, cha, thế này hay thế nọ, nếu bỏ qua tất cả
tên gọi và khái niệm mà chỉ nh́n nó như là những tiến tŕnh, bạn sẽ
thấy rằng: Trong quá khứ cũng có tiến tŕnh danh và tiến tŕnh sắc
đang sanh diệt, cũng y hệt như cách chúng ta đang sanh diệt bây giờ.
Hiểu biết cái hiện tại một cách hoàn toàn sẽ xoá bỏ được hoài nghi
về quá khứ và tương lai. Nó cũng xoá bỏ sự hoài
nghi: “ Ai là
người sáng tạo ra những điều
này?” Nó
xảy đến
không
báo
trước, không v́ một lư do nào cả, không nguyên nhân, hay là có ai đó
làm cho tất cả mọi thứ xảy ra? Đây là một vấn đề cũng được
làm sáng tỏ, bởi v́ chúng ta không biết ai tạo ra nó. Thực ra nó chỉ
là nhân quả tự nhiên mà
thôi.
Điều này đôi lúc c̣n tuỳ
thuộc vào mức độ hiểu biết
của hành giả, nếu được học về Pháp Duyên khởi(paticcasamuppada-
thập nhị nhân duyên), hành giả sẽ bắt đầu thấy ra sự
thật. Nhưng nếu chưa được học th́ cũng không thành vấn đề. Nguyên lư
cơ bản của Pháp Duyên khởi là: Bởi v́ có nhân này nên có quả
này, nếu không có nhân ấy
sẽ không
có quả
ấy.
Nhân
diệt th́ quả diệt. Tóm lược ngắn gọn
th́ đây chính là 12 nhân duyên. Nếu là người có kiến
thức uyên
thâm, hành
giả sẽ hiểu rằng: V́ có tiếng động, có tai
và v́ có sự gặp gỡ, hội tụ của âm
thanh, tai và tâm thức (thanh trần, nhĩ căn và nhĩ thức) mà
có xúc. V́ có xúc nên có thọ (vedana);
một thọ lạc hoặc khổ nào đó sẽ xảy ra. Bởi v́ có thọ lạc
hoặc khổ, tham hoặc sân sẽ sanh khởi. Chúng ta có thể thấy sự thật
một cách rất rơ ràng, có thể không nh́n thấy được toàn bộ tổng thể,
nhưng chúng ta cũng thấy rơ được một phần của nó. Nếu trước đây
chúng ta chưa bao giờ nh́n hoặc nghe thấy cái ǵ đó và cũng không
mong đợi sẽ nh́n hoặc nghe thấy
nó, th́
tâm tham
đối với
nó có
thể
sanh khởi được không? Thậm chí nó là ǵ bạn c̣n không biết th́ làm sao
có tâm tham đối với nó được. Vậy tham sanh khởi như thế nào? Do
trước kia bạn đă từng nghe hoặc nh́n thấy nó. Bời
v́ có
sự tiếp
xúc nên
có thọ (vedana),
bởi v́ có thọ nên có tham ái
(tanha).
Phụ thuộc vào mức độ hiểu biết của hành giả mà trong lúc hành thiền, bất
ngờ một tia sáng trí tuệ chợt loé lên trong tâm, rất ngắn và rất
nhanh, không hề suy nghĩ, thậm chí có khi đó chỉ là một từ Pali ngắn
hoặc một từ tiếng Anh, nếu bạn nói tiếng Anh. Đừng suy nghĩ quá
nhiều về những tư tưởng này, cho
dù chúng
rất sâu
sắc và
đầy
ư
nghĩa. Nếu bạn tiếp tục thả theo ḍng suy nghĩ, nó sẽ làm gián đoạn
chánh niệm và sự quan
sát của
bạn. Trong
quá tŕnh hành thiền, những
tư tưởng
này sẽ
đến lại nhiều lần, hăy quan sát chúng, suy nghĩ… tư duy… tư duy… Tư
tưởng nảy sinh trong những lúc này có thể
rất mạnh,
rất nhiều
năng lực,
rất sâu sắc, rất rơ
ràng và cũng rất khích lệ, v́ vậy mà đôi khi chúng ta cứ muốn nói
măi về chúng; không thể ngưng được. Nếu điều đó xảy đến với bạn,
điều quan trọng là phải
hiểu rằng: Nếu bạn buông ḿnh theo chúng, bạn sẽ bị mất chánh niệm
liền. Trong các khoá thiền tích cực hoặc ở nơi nào cũng vậy, nếu bạn
thực sự muốn phát triển tuệ giác sâu
sắc th́
đừng suy
nghĩ hoặc
nói
chuyện về nó, mặc dầu rất khó kiềm chế để không nói hay không nghĩ.
Chúng ta đă phát triển những tuệ giác sáng suốt đến vậy và cảm thấy
rất hạnh phúc và cảm thấy rất hạnh phúc đến điều đó, cảm thấy rất
nhẹ nhơm và v́ vậy muốn bạn bè, người thân của ḿnh cũng được như
vậy. bạn biết nếu người đó hiểu được, họ sẽ cảm thấy nhẹ
nhơm bời chính bạn đă tự ḿnh cảm nghiệm được trạng thái nhẹ
nhơm, buông xả đó.
Gánh nặng của “cái tôi”.
Một khi đă thấy rơ danh –sắc, thấy nguyên nhân danh-sắc sanh và
diệt, bạn sẽ cảm thấy
cực kỳ
nhẹ nhơm.
Rất
nhiều
niềm vui,
hạnh phúc, hỷ lạc và đức tin. Bạn đặt ḷng tin vào Đức Phật.
Có người nói với tôi, lần
đầu chứng nghiệm điều này, anh cảm thấy rất nhiều hỷ lạc trong ḿnh
và ngay lập tức nghĩ đến Đức Phật: “Quả thực, Đức Phật nói rất đúng.”
Nhiều người, trong giây phút
đó đă cúi xuống đảnh
lễ Đức Phật, với ḷng kính tín thực sự, một đức tin chân
thành đă phát khởi trong tâm. Một người bạn khác cũng là thiền sinh
giỏi, khi ngồi thiền và đạt được một tuệ giác sâu sắc đă nói,
“
Con thành kính đảnh lễ Đức Phật, người
đă thuyết giảng thuyết chánh niệm này.”
Một phong cách
đảnh lễ rất mới,
rất đậm cá tính; không phải v́
một
lư do nào khác, mà chỉ v́ Đức Phật đă thuyết dạy pháp hành chánh niệm
này
thôi
---o0o---
Phần 2: Tuệ giác thứ nhất và thứ hai:
Hay biết
tâm và
đối tượng;
Phân biệt nhân duyên
Nghe và đọc có thể đem lại
cho bạn trí tuệ sâu sắc nhưng vẫn c̣n một bước nữa phải đi: Trí tuệ
thiền tập (nana). Đây là cái đẹp trong giáo pháp của Đức Phật. Đức
Phật cũng công nhận có kiến thức hoặc hiểu biết thu được từ nghe,
đọc và từ tư duy, và hầu hết mọi người chỉ dừng lại ở chỗ này, nhất
là các triết gia phương
tây, họ
chỉ dừng
lại ở
đó.
Đức Phật đă tiến thêm một
bước xa hơn: Đó là trí tuệ thiền tập.
Tuệ giác thứ nhất và thứ
hai: Hay biết tâm và đối tượng; Phân biệt nhân duyên
Trong kinh điển có nói đến nhiều loại hoài
nghi khác
nhau, nhưng
hành giả không nhất
thiết phải kinh qua tất cả. Loại nghi đầu tiên là hoài nghi
rằng: Trước kiếp này có “tôi”
hiện hữu không? Đây là một loại hoài nghi. Trước
kiếp này
có phải
không có
“tôi”? Đây
thực ra cũng là một câu hỏi từ góc độ khác mà thôi. Nếu có
một “cái tôi”
th́ cái tôi đó như thế nào?
H́nh dáng
ra sao,
là đàn
ông
hay
đàn bà? Đủ các loại hoài nghi mà con người có. Tuần trước, tôi kể về một
người bạn của tôi, trước kia anh ta là một phụ nữ c̣n bây giờ lại là
một người đàn ông.
Đừng tự măn ḿnh là đàn
ông, cũng đừng buồn khổ khi thấy
ḿnh là một phụ nữ. Không có ai tốt
hơn ai đâu. Tốt hay xấu là ở sự tu tập, ở trí tuệ và ở chính
cái tâm của ḿnh.
“Tôi là một phụ nữ?”, “Tôi
là đàn ông?”, “Tôi là người châu Âu hay châu Á?”
Có rất
nhiều loại hoài nghi, nhưng khi đă hiểu thật sâu sắc những điều này,
bạn sẽ biết rằng những danh từ
đó chỉ
là những
điều chế
định,
là
những
thứ đă
xảy ra
trong quá
khứ. Khi có đủ nhân duyên th́ quả sẽ trổ thôi
mà.
“Tôi có tái sinh tiếp
không?” cũng
cùng một loại hoài nghi, “Có linh hồn nằm ở bên trong tôi, hay ở
một nơi nào đó bên ngoài?” cũng là môt loại hoài nghi khác. Khi
nh́n thật sâu vào tiến tŕnh thân tâm này, bạn sẽ thấy mọi sự đều
sanh và diệt. Không có ǵ là một thực thể trường tồn, vĩnh cửu cả,
mọi thứ đều vô thường sanh và diệt. Vậy
th́ “cái tôi” này từ đâu đến?
Khi chúng ta nói tái sinh, nó rất khác với
từ đầu
thai –chuyển kiếp
(reincarnation),
mặc dù
đôi
khi
chúng ta sử dụng hai từ này như thể
với cùng một ư nghĩa. Hai từ này không hoàn toàn giống nhau.
Đầu thai có nghĩa là một thực thể thường c̣n nào đó có một thân thể
mới. Nó có nghĩa một linh hồn chuyển sang một thân mới; thực ra
không có ǵ là linh hồn chuyển sang một thân mới cả, chỉ có tâm,
tiến tŕnh của tâm và tiến tŕnh của thân. Trong kinh điển nhiều lần
giải thích điểm này rất chi tiết. Nó chiếm đến hai tập sách về
thiền. Nếu tôi giảng lại mọi chi tiết th́ sẽ mất thời gian rất lâu.
Vậy hăy cố gắng hiểu điều này trong bất kỳ trường hợp nào như ngửi,
nếm, thân xúc chạm, nghe âm thanh và nh́n như tôi đă giải thích ở
trên. Hăy
lấy đó
làm ví
dụ và
hiểu
các
tiến tŕnh khác nhau trong thân và tâm
ḿnh.
Nói tóm lại. đối cới một số
người có hiểu biết sâu sắc, họ thấy được Pháp duyên khởi ngay từ lúc
đầu. Avijja
(vô
minh) có nghĩa là si ám hay không hiểu biết, không hiểu biết cái ǵ?
Không hiểu biết chân lư, không hiểu biết thực tại.
Bởi v́ không hiểu biết
nên chúng ta nghĩ rằng: Nếu tôi làm việc này, tôi sẽ đạt được
một điều ǵ đó – và cái đó sẽ làm cho tôi hạnh phúc. Điều này gọi là
“không hiểu biết”; bởi v́:
Thực ra không có cái ǵ trên đời có
thể làm cho chúng ta thực sự hạnh phúc được
cả.
Khi nghĩ về điều đó, nó sẽ làm cho bạn thật thất vọng và chán chường;
chúng ta tự đánh lừa ḿnh quá lâu rồi. Hăy tỉnh dậy và trưởng thành
lên! Đă bao giờ bạn t́m được một thứ ǵ làm cho ḿnh măn nguyện măi
chưa? Suốt cuộc đời chúng ta đi t́m cái đó, cái thực sự làm cho ḿnh
măn nguyện, thực sự hạnh phúc, bạn t́m ra nó chưa? Liệu thực sự là
có một cái ǵ đó như thế
không?
Tin rằng có một cái ǵ đó
sẽ làm cho ta hạnh phúc, rồi làm mội công việc này công việc kia với
hy vọng nó sẽ làm ḿnh hạnh phúc, đó là ảo tưởng, đó chính là vô
minh (avijja); không hiểu biết về Tứ Diệu Đế là vô minh.
Tôi muốn diễn đạt một cách thật đơn giản để các bạn hiểu được vấn đề.
Chẳng hạn, ở đây vào mỗi Chủ nhật, chúng ta đều có làm phước bố thí,
cúng dường (dana); mọi người đến và cúng dường cho tôi. Mỗi ngày mọi
người đều đến và cúng dường, đó là một việc làm tốt đẹp; tấm ḷng
hào phóng thật là tốt
đẹp! Chúng ta cần giúp đỡ lẫn nhau, cần bố thí cho nhau. Chúng ta bố
thí tiền bạc, bố thí thức ăn, bố thí quần áo, chúng ta bố thí thời
gian, sự quan tâm, chúng ta bố thí kiến thức, dạy học cũng là bố
thí, đó là một việc tốt nên làm. Nhưng bạn mong đợi điều ǵ từ những
việc làm đó? Sự mong đợi
này rất quan trọng.
“Tôi
cúng dường
vật thực
này
đến vị tỳ khưu đáng kính
này, nhờ phước báu của thiện nghiệp đó. Mong rằng tôi sẽ được tái
sanh làm một người giàu sang, tôi sẽ hạnh phúc, tôi sẽ măn nguyện”;
đó là ảo
tưởng. Nó mang lại phước báu thật, nhưng sẽ không thực sự mang lại
hạnh phúc cho bạn được đâu.
Ngay cả khi làm phước bố thí, đôi lúc chúng ta cũng làm với rất nhiều vô
minh (avijja),
v́ nghĩ rằng nó sẽ mang lại hạnh phúc thật sự, sự măn
nguyện thực sự cho ḿnh. Tại sao chúng ta làm phước bố thí? Khi làm
phước bố thí, chúng ta mong đời điều ǵ?
Tốt nhất
hăy nguyện rằng: “Do năng lực của phước thí này, nguyện cho tôi có
cơ hội được
tu tập và liễu ngộ
được chân lư”, đó là điều thực tế chúng ta có thể hy vọng đạt
được.
Nhiều câu chuyện trong kinh
điển cho thấy, có người chỉ nhờ bố thí một chút của mà sau đó đă thu
lại được rất nhiều phước báu. Đó là một sự đầu tư tốt
đẹp. Nó đặt
cơ sở
trên ḷng
tham và
“cái tôi”. Tôi sẽ thu lại được rất nhiều, đây là một
sự đầu tư béo bở. Hăy nh́n sâu vào trong đó, bởi v́ khi bạn mong đợi
quá nhiều, th́ đó chính là
ḷng tham. Bạn làm phước bố thí, nhưng việc phước đó lại bắt nguồn
từ ḷng tham,
từ tà
kiến ngă
chấp,
chấp
vào “cái tôi”
của ḿnh. Chính v́ tà kiến đó, có lúc chúng ta làm việc
tốt, rồi lúc khác ta lại ngu ngốc đi làm việc xấu, việc bất thiện:
ăn cắp, sát sanh. Tất cả đều bắt rễ từ niềm tin rằng: Nếu có
được
cái đó, nó
sẽ làm ta hạnh phúc; chẳng
hạn như
uống rượu,
sử dụng
chất gây nghiện
rồi tin
rằng nó
sẽ làm
cho ta hạnh phúc.
Dù là việc thiện hay bất thiện, nhưng nếu không hiểu biết một cách
sâu sắc, chúng ta sẽ làm với sự tin tưởng rằng:
“Tôi sẽ làm được một cái ǵ đó.”
Khi hành giả hành thiền
thật sâu sắc sẽ thấy được:
Avijja – paccaya sankhara, sankhara-
paccaya vinnanam
(Vô minh duyên
hành, hành
duyên thức)
và
toàn bộ tiến tŕnh Thập Nhị Nhân Duyên diễn tiến.
Để giải thích Thập Nhị Nhân
Duyên cần phải có một lớp học khác mới có thể giảng gải thật sâu về
nó. Bởi v́ Tuệ Phân biện Nhân duyên này
(paccaya- pariggaha-nana)
đang nói về nhân và quả nên chúng có liên hệ với nhau.
Sau đây là trích dẫn một đoạn kinh thật thú vị và sâu sắc:
Kammam natthi vipakamhi.
Pako kamme na vijjati.
Annamannam ubho sunna, na
ca kammam vina phalam
Kamman
ca
kho
upadaya
tato nibbattate phalam.
Na
h’ettha
devo
brahma
va samsarassatthi karako,
Suddhadhamma
pavattanti hetusambharapaccaya ti. ~Vsm 603
Kammam natthi vipakamhi.
Pako kamme na vijjati:
Trong nhân không
có quả, trong quả không có nhân. Cái này không ở trong cái kia. Hai
cái không phải là một. Nếu bạn nghĩ rằng nhân ở trong quả hoặc quả ở
trong nhân th́ bạn phải có cả hai thứ cùng một lúc. Chúng không đi cùng mà tách
biệt
nhau.
Annamannam ubho sunna:
Có cái này th́ không có cái kia, cái này không có
ở trong cái kia; cái kia không có ở trong cái này; chúng loại
trừ lẫn nhau.
Na ca kammam vina phalam:
Nhưng không có
nhân th́ cũng chẳng có quả. Đây là một bài kệ (gattha)
rất hay; rất sâu sắc và ư nghĩa.
Kamman ca kho upadaya tato
nibbattate phalam:
Không có Đấng Sáng Tạo nào
tạo ra
ṿng luân
hồi cả
(samsara)
Suddhadhamma
pavattanti
hetusambharapaccaya ti:
Chỉ
thuần tuư là
pháp, thuần
tuư là
tự nhiên đang
diễn
tiến, bởi v́ có đầy đủ nhân duyên thích
hợp.
Tuỳ thuộc vào trí thông minh và hiểu biết của hành giả mà nhiều ư nghĩ
như vậy sẽ hiện khởi trong tâm…nó sanh khởi bởi v́ có đủ nhân duyên.
Trong giai đoạn này, rất nhiều ư nghĩ sẽ sanh khởi trong tâm hành
giả, một cách tự nhiên, bởi v́ bạn bắt đầu nhận ra
những điều thật sâu sắc, thật chí lư. Những suy nghĩ kết nối,
xuất hiện nhiều
lần trong
tâm, điều
rất quan
trọng cần nhớ là không được suy nghĩ quá nhiều về nó. Do đă phát triển được một
mức định tâm và
chánh niệm
nhất định, nên
bạn có thể
thấy mọi
sự việc
rơ
ràng, minh bạch, khiến bạn tư duy rất sâu sắc.
Bạn có
thể dính mắc với tuệ giác của chính
ḿnh: “Ồ bây
giờ tôi
đă thấy
rơ, quả đúng là như vậy.” Bạn lặp đi lặp lại những điều như
vậy và cứ muốn suy nghĩ hoài về nó.
Người đă đạt được hai tuệ
giác này được
gọi là
một vị
tiểu Tu-đà-
hoàn (Culasatapanna)
nghĩa là
người đă nhập vào ḍng Thánh. Một vị Tu- đà- hoàn thực sự là
một người đă thành đạt được đạo quả
(magga-pala)
lần đầu tiên (Nhập lưu
đạo tuệ
và Nhập
lưu quả tuệ). Đây
vẫn chưa phải là đạo quả, song
người đă
thấu hiểu
về danh
sắc
và
nguyên nhân của danh sắc là người đă đoạn trừ được rất nhiều tà kiến
loại thô về một thực thể thường c̣n, về bản ngă, về “cái tôi”. Do
sự thanh tịnh đó, vị này rất giống một vị thánh Tu-đà- hoàn thực sự.
V́ vậy, vị ấy được gọi là vị tiểu Tu-đà- hoàn.
Đây
là một bài
kệ khác rất
hay:
Imina pana nanena
samannagato vipassako Buddhasasane laddhassasa laddhapatittho
niyatagatiko. ~ Vsm
605
Hành
giả
(vipassako) đă đạt (samannagato) đến
sự hiểu biết này, với
tuệ giác này (nanena), đă
được
nhẹ nhơm(laddhassasa),
nghĩa là trước kia hành giả phải mang một gánh nặng, c̣n bây giờ đă
được trút bỏ khỏi gánh nặng đó. Hành giả đă có một nơi để nương
tựa (laddhapatittho),
một tuệ giác sâu sắc để nương tựa. Một người đă đạt đến và duy tŕ được
tuệ giác này được
gọi là
niyatagatiko, nghĩa
là
người sẽ không bị tái sanh vào cảnh giới thấp kém (khổ cảnh). Sự tái
sanh tuỳ thuộc vào phẩm chất tâm linh của chính
bạn, phẩm
chất của
tâm thức
bạn. Tuệ giác sâu sắc này có năng lực vô cùng lớn và đem lại
cho bạn sự thanh tịnh về tri kiến, và do kiến tịnh, phẩm chất tâm
của bạn trở nên cao thượng đến mức không thể tái sanh vào cảnh giới
thấp hèn được nữa.
Cuộc đời
bạn phụ thuộc vào phẩm chất tâm của chính bạn
Hai cái đó phải tương xứng
với nhau. Một phẩm chất tâm thấp kém,
hạ liệt sẽ bị tái sanh vào một
cảnh giới thấp kém, hạ liệt. Khi đă phát triển được một tuệ giác
sâu sắc, một trí
tuệ sáng suốt và có giới đức trong sạch, có sự thanh tịnh của một
nội tâm trong sáng, của tuệ giác; khi đó phẩm chất tâm của bạn sẽ
trở nên cao thượng đến mức không thể tái sanh vào khổ cảnh. Nhưng
nếu để mất giới đức, nếu bạn để mất định tâm và trí tuệ th́ điều đó
sẽ không chắc chắn. Nếu có thể duy tŕ tuệ giác này, nó
sẽ đem
lại cho
bạn sự
nhẹ
nhơm,
thanh thản vô cùng lớn bởi v́ bạn sẽ không c̣n bị rơi vào khổ cảnh nữa.
Tôi có một người bạn cũng
là một thiền sinh, không
biết bây giờ có c̣n hành thiền nữa hay không v́ anh rất bận. Tôi
hy vọng
là anh
ấy vẫn
tiếp tục. Một lần,
anh ấy thể nhập được vào tuệ giác này, anh đến và nói với tôi rằng:
“Trước khi tôi hiểu được điều này, tôi
cứ nghĩ rằng khi muốn điều ǵ th́ tôi phải có bằng được nó,
nếu không có nó tôi sẽ
không thể hạnh phúc, tôi phải
t́m kiếm và phải có bằng được.”
Cái “phải” này, cái phải
có là một cái gánh thật nặng. Bây giờ anh nói,“
Mặc dù tôi vẫn c̣n
rất tham (thực tế anh ta cũng
là một
người tham
lam),
nhưng
mỗi khi tâm tham xuất hiện
trong tôi, tôi biết được đây là tham,
c̣n trước kia th́ tôi cứ nghĩ rằng tôi thực sự mong
muốn cái đó.” Nếu bạn đồng hoá “cái tôi”
này và cái mong muốn ấy với nhau, nó sẽ trở thành một rắc rối lớn.
Nhưng khi bạn không tự đồng hoá ḿnh với nó, bạn thấy đó chỉ là một
tiến tŕnh, một nỗi khát khao, một
mong muốn mănh liệt đang trỗi dậy mà thôi. Anh ấy nói,
“Bây giờ th́ tôi hiểu rằng: Không cần phải làm ǵ với nó
cả.” Lúc đầu th́ anh nghĩ rằng nếu không đạt được cái đó, anh sẽ
chẳng thể hạnh phúc. “Tôi muốn điều này và tôi sẽ hạnh phúc nếu
tôi đạt được nó, nếu không có được nó, tôi sẽ không hạnh phúc.” Bây
giờ th́
anh nói
rằng:
Chỉ cần quan sát nó và cảm nhận được một sự thanh thản, nhẹ nhơm vô cùng
lớn. Chỉ cần làm được như thế thôi là bạn đă buông bỏ được 90% nỗi
khổ của ḿnh rồi. Bạn có
thể thấy được tâm tham và sự khao khát, mong cầu như chúng thực sự
đang là.
Không có sự hỗ trợ của tà
kiến về “cái tôi” th́ bất cứ loại phiền năo nào cũng sẽ bị suy yếu.
Phiền năo sẽ trở nên rất mạnh
mỗi khi
chúng được
“cái tôi”
tiếp sức:
“tôi
tức giận, tôi buồn bực, tôi muốn trở thành người tốt”.
Mỗi khi những suy nghĩ đó
sanh khởi trong tâm, nếu bạn đứng lùi lại, tách ra, không
tự đồng
hoá với
nó và
chỉ
nh́n
nó như một tiến tŕnh của tâm thức, nó sẽ mất sức mạnh. Bạn có thể duy
tŕ được phẩm hạnh của ḿnh và sự quân b́nh, thanh thản trong tâm,
và nếu ḿnh thấy thực sự cần, bạn sẽ t́m ra một phương cách thích
hợp để có nó.
Giữa cái chúng ta cần và
cái chúng ta mong muốn là một khoảng cách rất lớn. Cái muốn th́ vô
cùng, cái thực sự cần th́
rất ít.
Bạn sẽ không thể tin nổi là để sống hạnh phúc, chúng ta chỉ cần rất ít
đến thế nào đâu. Một lần tôi đă kể về sư phụ tôi, chắc có bạn vẫn
c̣n nhớ. Sư phụ sống một nơi rất nhỏ hẹp. Người là một
nhà sư
học vấn
rất cao
rộng
uyên
thâm, đặc biệt xuất sắc. Tôi thực sự may mắn là đă được gặp những vị
thầy của ḿnh. Họ thực hành những ǵ họ dạy và dạy những ǵ họ thực
hành. Họ không dạy những thứ trong trí óc hoặc từ sách vở, họ dạy từ
chính cuộc đời của ḿnh. Sư phụ tôi sống một cuộc sống hết sức đơn
giản. Chỗ ở của
người
trống không, chỉ là một căn pḥng
trống. ngài
ngủ trên
một tấm
ván gỗ, trải chiếc khăn để làm gối. Không có thảm, không có một thứ ǵ trên sàn nhà cả. Sư phụ trải một tấm y trên sàn và
nằm ngủ tại đó. Không có một thứ đồ đạc ǵ, trong chỗ ở của thầy
hoàn toàn không có một thứ ǵ cả. Nhiều người
đến thăm
thấy ngài
chẳng có
một thứ
ǵ cả.
Họ nói
nghe đồn
vị sư
này không có
một thứ ǵ, nhưng chỉ khi đến tận nơi và xem xét chỗ ở của ngài,
họ mới thấy
họ thực
sự không
có ǵ
thật. Thầy ăn ngày
một bữa, ăn chay, hầu như chỉ có một ít cơm, một ít salad cà chua,
búp đậu, rất ít đậu luộc và một chút xíu các loại rau khác. Người ta
dâng cúng sư phụ nhiều bánh và bích quy nhưng người không dùng tới.
Sư phụ nói những thứ đó không hợp với bụng dạ sư phụ. Chỉ ăn ngày
một bữa, thầy làm như vậy suốt hơn 40 năm và vẫn rất khoẻ. Tôi biết
sư phụ đă 20
năm và ngài
chỉ bị ốm có hai lần, nguyên nhân là bị ngộ độc thực phẩm. Một lần
là do có người dâng sư phụ đồ ăn không hợp và lần thứ hai có người
băm nhuyễn
thịt lợn
làm đồ
ăn,
người
đó không biết sư phụ không ăn thịt cá nên trộn lẫn thịt vào rau mà ngài
không biết. Sư phụ ăn món đó và bị tiêu chảy. Thật là kỳ lạ, nếu bạn
kể với bác sĩ rằng, có một người chỉ ăn một bữa ăn đơn giản như vậy
mỗi ngày mà vẫn khoẻ mạnh, th́ tôi nghĩ rằng 99% bác
sĩ sẽ nói người ấy ắt sẽ bị đủ loại bệnh suy dinh dưỡng,
nhưng sư phụ tôi lại không có một triệu chứng suy dinh dưỡng nào như
thế cả. Tôi không thể thấy được sư phụ, nhưng sư phụ đă sống như vậy
đấy. Tất cả tài sản của sư phụ chỉ đựng vừa trong một gói nhỏ.
Giữa
cái chúng ta
muốn và
cái chúng
ta cần là
một khoảng cách vô cùng lớn, nhưng
ngày nay
người ta
càng
ngày
càng gia tăng cái muốn của ḿnh lên nhiều hơn nữa.
Nếu bạn hiểu tâm ḿnh, hiểu
được tâm tham này, hăy từ bỏ nó. Bạn có thể khiến cuộc sống của ḿnh
trở nên đơn giản và dễ dàng. Cuộc sống sẽ không c̣n là một gánh nặng
nữa!
Thực ra gánh nặng của cuộc sống không lớn đến vậy; Gánh nặng của ḷng
tham lớn hơn nhiều.
Tôi nghĩ có lẽ nên chấm dứt bài giảng hôm nay ở đây và để cho các bạn
nêu một vài câu hỏi. Trong buổi học tới tôi sẽ nói về tuệ thứ ba và
tuệ thứ tư. Tuệ thứ
ba và tuệ
thứ tư
rất quan
trọng,
tuệ
thứ nhất và tuệ thứ hai cũng quan trọng. Chúng là nền tảng. Không hiểu
được hai tầng tuệ đầu tiên chúng ta sẽ không thể tiến tiếp được.
Hỏi và đáp:
Nếu vẫn tiếp tục thực hành,
bạn có thể ǵn giữ được nó. Chính sự thực hành sẽ giữ ǵn chúng. Một
khi đă đạt được tuệ giác đó, bạn sẽ thấy được tầm quan trọng của nó.
Tuệ giác đó cũng có thể giúp cho cuộc sống của bạn trở nên rất đơn
giản. Khi không có tuệ
giác, chúng ta làm cuộc sống của ḿnh trở thành phức tạp; bạn làm
quá nhiều việc không cần thiết,
suy nghĩ
quá nhiều
một cách
không cần thiết,
nghe, nh́n, ăn uống, đi lại đây đó suốt ngày.
Một khi đă đạt tới tuệ giác này, nó sẽ cho bạn thấy việc nào là quan
trọng trong cuộc đời, việc nào là không quan trọng. Bạn sẽ nh́n nhận
hai việc đó một cách khác hẳn.
Hầu hết chúng ta thường gộp chung tất cả mọi việc với nhau và nghĩ rằng
việc nào cũng quan trọng như nhau cả, chúng ta tham gia vào đủ mọi
việc đến nỗi không c̣n thời gian cho chính ḿnh nữa, thậm chí hành
thiền cũng không được. Rất nhiều nỗi lo toan, tính toán của chúng
ta: Nào là con cái, vợ chồng, nào là công ăn việc làm là không cần
thiết. Một khi đă được tuệ giác
này, sự
lo lắng
của bạn
sẽ c̣n
rất
ít, bạn chỉ c̣n lo tính những vấn đề trước mắt mà thôi. Chỉ khi đau ốm
bạn mới lo tính đến điều đó và đi khám bác sĩ. Nhưng bạn sẽ không
ngồi đó lo nghĩ đến những điều sẽ xảy ra trong 10 năm hay 30 năm
nữa. Bạn chỉ làm những việc cần phải làm và bạn sẽ buông bỏ được rất
nhiều, rất đơn giản.
Đó là lư do tôi nói: Hầu
hết các thiền sinh, những thiền sinh thực thụ, những người ǵn giữ
được tuệ giác sẽ sống một cuộc sống rất đơn giản; họ không thể sống
phức tạp.
Một
người bạn
của tôi là một thiền sinh giỏi,
nói rằng cô ta rất ngại mua sắm thêm
đồ đạc
mới trong
nhà, bởi
v́
chính
thứ đồ
mới ấy sẽ
choán chỗ trong tâm trí, sẽ làm cô mất thời gian với nó. Mọi người khi đi
dạo phố, họ nh́n ngó những cửa hàng đầy những thứ đồ đẹp đẽ, những
thứ đồ đạc hữu ích và tiện lợi…
“tôi muốn cái này, tôi muốn cái kia…”
không bao giờ ngừng lại. Cô này nói rằng mỗi khi đi xuống
phố và nh́n vào các cửa hàng, cô thấy chỉ toàn là những đồ tạp nham,
vô giá trị. Ai cần những
thứ đó làm ǵ? Ai tạo ra những nhu cầu ấy cơ chứ? Người ta thường
tạo ra nhu cầu và cố thuyết phục bạn tin rằng bạn thật sự cần đến nó
và nếu bạn không có nó, bạn sẽ không hạnh phúc nổi; thế là bạn bị nó
lừa bịp! Người
nào hiểu
được tiến
tŕnh
tâm này một cách sâu sắc sẽ biết rằng họ không cần những thứ đó.
Bạn có thể bỏ bớt đi được rất nhiều thứ, hăy để cho cuộc sống của bạn
thật đơn giản và bạn sẽ có thêm thời gian
để hành thiền. Điều quan trọng là phải giữ ǵn được các tuệ
giác đă có và cách duy nhất để làm được điều đó là tiếp tục thực
hành.
Hỏi & đáp:
Tôi đă
nói danh (nama)
có rất nhiều nghĩa. Chúng
ta đă
biết rằng
nama có
nghĩa là danh xưng, tên gọi; rupa (sắc) có nghĩa là h́nh thể; nama
là tiến tŕnh tâm, rupa
là tiến tŕnh của thân. Hăy sử dụng nghĩa của nó
tuỳ theo
từng ngữ
cảnh. Nama
cũng
có rất nhiều nghĩa,
rất dễ
nhầm lẫn.
Khi bạn biết nó có nhiều nghĩa và bạn biết sử dụng đúng nghĩa
trong ngữ cảnh đó, th́ nó sẽ không làm bạn bị rối nữa.
Hỏi và đáp:
Nói
một cách
ngắn gọn
th́ tuệ giác đầu tiên là để thấy có một tiến tŕnh thân, nó
không phải là một chúng sanh và có một tiến tŕnh khác, tâm, tiến
tŕnh tâm lư. Hai tiến tŕnh này khác biệt nhau, tiến tŕnh thân
không phải tiến tŕnh tâm, tiến tŕnh tâm không phải là tiến tŕnh
thân nhưng cái này duyên cho cái kia. Ví dụ nghe một tiếng động, th́
tiếng động làm duyên cho cái nghe, lỗ tai làm duyên cho cái nghe,
tiếng động
và tai,
tức màng
nhĩ,là sắc (rupa) thuộc
tiến tŕnh
thân.
Bạn
chú tâm lắng nghe tiếng động và tâm nghe
(nhĩ thức)
này là danh
(nama). Một
ví dụ nữa: Khi bạn muốn cử động, tác ư muốn cử động sanh khởi, đó là
danh, rồi sau đó cơ thể mới cử động. Ngay cả nhắm mắt, mở mắt th́
cũng có tác ư nhắm hoặc mở. Tác ư và tâm sanh khởi cùng với nó là
danh. Tuệ thứ hai rất gần với điều này. Bạn thấy rằng danh này sanh
khởi bởi v́ có sắc này, và sắc này, tiến tŕnh
thân sanh khởi v́ có tiến tŕnh tâm này, tuỳ thuộc vào từng
trường hợp mà hai cái này làm duyên cho nhau. Thấy
nhân duyên, thấy được nó sanh khởi là do nhân duyên, đó chính
là tuệ thứ hai. Tôi chưa giảng về tuệ thứ ba và tuệ thứ tư,
nhưng bởi v́
các bạn
muốn biết
nên tôi sẽ giải thích sơ qua
một cách rất ngắn
gọn. Tuệ
thứ nhất
là vô ngă
(anatta), thấy danh
và sắc như là một tiến tŕnh, không phải một chúng sanh, không phải
là một thực thể, không phải một linh hồn, cái đó nghĩa là vô ngă. Nó
không do ai tạo ra, do đó đây
cũng là Anatta-nana (Tuệ Vô Ngă). Tuệ thứ ba nh́n thấy cả ba đặc
tướng
Vôthường
(anicca), Khổ
(dukkha) và
Vô ngă (anatta),
thấy tiến tŕnh sanh và diệt. Chỉ đến tuệ
thứ ba hành giả mới bắt đầu thấy được vô thường thực sự, sanh và
diệt, nhưng chưa thực sự đến mức chín muồi. Tuệ thứ tư chú trọng
nhiều
hơn đến
vô thường
(anicca), không phải
đến
khổ
(dukkha) và
vô ngă
(anatta). Mặc dù cả ba đặc tướng đều đi cùng nhau, song tuệ này chú
trọng nhiều hơn đến sự sanh diệt. Tuần tới tôi sẽ nói chi tiết hơn
về tuệ thứ ba và tuệ thứ tư. Nhờ việc giảng đi giảng lại như thế
này, tôi hy vọng là vấn đề sẽ trở nên rơ ràng
hơn.
Hỏi và đáp:
Ngay cả
đối với hai tuệ đầu tiên này cũng không thể đạt được chỉ nhờ đọc
sách. Rất dễ hiểu khi nói về chúng, nhưng đó không phải là tuệ giác
thực sự, đó chỉ là kiến thức. Khi chứng nghiệm nó bạn mới hiểu được,
bởi v́ vào thời điểm đó bạn không c̣n suy nghĩ về nó nữa. Bạn thực
sự thấy nó một
cách rất
rơ ràng.
Mức độ
rơ
ràng, minh bạch của nó thật đáng kinh
ngạc.
Hỏi và đáp:
Tôi biết một số người không
đọc nhiều lắm cũng đă đạt tới tuệ thứ nhất, nhưng rất khó tiến vào
tầng tuệ sâu hơn. Họ phải thấy được suy nghĩ chỉ là suy nghĩ, không
có chúng sanh nào ở đó cả. Tôi biết một người như vậy. Anh ta chưa
từng đến bất
cứ một
thiền viện
nào cả,
nhưng khi nói chuyện với tôi, cách anh ta nói về nó khiến tôi cảm
thấy người này đă đạt được tuệ giác sâu sắc thực sự, rằng mọi thứ
thật sự chỉ là tiến tŕnh. Anh ta nói chỉ có những suy nghĩ, chúng
không phải là tôi, chúng đến rồi chúng lại đi.
Hỏi và đáp:
Tiểu tuệ
giác, theo như tôi hiểu ư của bạn là như vậy, đúng không… Đức Phật
có nói về ba loại trí tuệ. Đầu tiên là bạn có hiểu biết nhờ nghe
người khác nói hoặc đọc trong sách vở. Đó là một loại tiểu tuệ giác.
Thứ hai là khi tư duy một cách sâu sắc, bạn
đạt được
tuệ giác
sâu hơn
và thứ
ba là loại tuệ giác thực sự của thiền tập. Hai mức trí tuệ
đầu bạn chỉ cần đọc, nghe, suy nghĩ là có thể đạt được. Bạn có thể
loại bỏ được khá nhiều tà kiến chỉ nhờ nghe, đọc sách vở và
nghiền ngẫm, tư duy, đặt câu hỏi và làm sáng tỏ mọi điều. Đó là lư
do v́ sao chúng ta đến đây để tiếp thu những trí tuệ loại nhỏ này.
Nghe và đọc có thể đem lại cho
bạn trí
tuệ sâu
sắc nhưng
vẫn
c̣n
một bước nữa phải đi: Trí tuệ thiền tập(nana).
Đây là cái đẹp
trong giáo pháp của Đức Phật. Đức Phật cũng công
nhận có kiến
thức hoặc
hiểu biết
thu được
từ nghe, đọc và từ tư duy, và hầu hết
mọi người chỉ dừng lại ở chỗ này, nhất là các triết gia phương tây,
họ chỉ dừng lại ở đó. Đức Phật đă tiến thêm một bước xa hơn: Đó là
trí tuệ thiền tập.
Hỏi:
…
nhưng sẽ không thể có được tuệ giác thực sự sâu sắc nếu chúng ta không
hành thiền?
Đáp: Đúng thế! Thế
nên đạo Phật mới có ư nghĩa thực tiễn và thiết thực. Nếu thực
sự muốn
hiểu được
danh, sắc,
vô thường, khổ, vô ngă th́ không có con đường nào khác.
Con đường
duy nhất là phải thực sự hành thiền, phải thực sự chánh niệm. Đó chính là chỗ thậm thân vi diệu của Phật Pháp.
Hỏi và đáp:
Thiền an chỉ định (samatha)
là nền tảng, một nền tảng rất vững mạnh, rất tốt nếu bạn có thể phát
triển được nó.
Hỏi và đáp:
Đức Phật hàng ngày đều nói
về chánh niệm, và chánh niệm chính là thiền Vipassana. Đức Phật đă
nhiều lần nói đi nói lại rằng phải nh́n một
cách sâu
sắc. Tứ
Niệm
Xứ (satipatthana)
chính
là thiền
Vipassana. Bốn niệm xứ này có bốn loại đề mục khác nhau.
Trong thực hành, chúng ta không thể phân loại rạch ṛi như
vậy, bởi v́ chúng hoà lẫn với nhau. Khi bạn hành thiền với đề mục
hơi thở th́
đó là
niệm thân
(kayanupassana);
và khi có suy nghĩ,
đó chính
là niệm
tâm
(cittanupassana). Bạn
cảm nhận một cảm giác trên thân, hoặc là dễ chịu hoặc khó chịu, đó là
niệm thọ(vedananupassana).
Có khi tâm bạn rất tĩnh lặng, và bạn thấy, à, đầy là sự
tĩnh lặng, lúc đó đă trở thành niệm pháp(dhammanupassana).
Khi bạn chánh
niệm và biết ḿnh đang có
chánh niệm, đó cũng là niệm pháp.
Nu là dạng rút
gọn của từ
anu, nghĩa là lập đi lập lại,
passana nghĩa là nh́n: Nh́n đi nh́n lại nhiều lần. Khi thoáng nh́n
qua cái ǵ đó, bạn sẽ không thực sự chắc chắn về cái ḿnh vừa nh́n
thấy, nhưng nh́n đi nh́n lại nhiều lần, nó sẽ trở nên rơ ràng hơn.
Có một vật đậy kín trong cốc, tôi mở cho bạn xem trong một giây ngắn
ngủi và đậy ngay lại rồi hỏi bạn xem đó là cái ǵ, bạn sẽ không thể
trả lời chắc chắn nó là cái ǵ. Nếu có thêm thời
gian để nh́n lâu hơn, bạn sẽ biết nó là cái ǵ. Cũng như vậy,
tâm phải luôn an trú, lặp đi lặp lại trên những tiến tŕnh này –
thân, thọ, tâm, pháp.
Hỏi và đáp:
Không có
nhân duyên th́ không có cái ǵ sanh khởi được cả. Khi bạn có một cảm
giác dễ chịu, th́ đó cũng là do nhân duyên… chẳng hạn, cái rơ nhất
là cảm giác khó chịu. Nếu bạn tự véo ḿnh một cái th́ có một
cảm giác khó chịu. Bởi v́ có cái véo, nên có cái xúc chạm, và
bởi v́ nó cứng nên bạn cảm thấy đau. Khi ngồi trên một cái nệm thật
mềm mại bạn thấy rất dễ chịu. Với con mắt, bạn chỉ có cảm giác trung
tính, thọ xả, không dễ chịu hay khó chịu th́ khi đó là một tiến
tŕnh khác, tiến tŕnh của tâm. Khi bạn thích cái ḿnh nh́n
thấy th́ đó không c̣n là nhăn thức nữa. Cái thích này là một
tâm khác. Khi
bạn thấy
một cái
ǵ,
cái thấy thuần tuư đó là nhăn thức, và ngay trong sát na đó, bạn c̣n
không biết được ḿnh nh́n thấy cái ǵ nữa, chỉ có một cái thấy thuần
tuư. Bước tiếp theo là xác định cái ḿnh thấy và rồi quyết định xem
có thích nó hay
không?
Tâm là danh, đối tượng là
sắc- trong trường hợp này là màu sắc. Khi nh́n
th́ chúng ta chỉ nh́n thấy được mỗi màu sắc mà thôi, nhăn
thức chỉ nhận biết được màu sắc. Bước tiếp theo diễn ra trong tâm là
sự diễn dịch. Khi tâm diễn dịch, nó không c̣n là nhăn thức nữa mà là
ư thức. Nhờ kinh nghiệm
quá khứ bạn mới biết được cái ḿnh đang
nh́n là
cái ǵ.
Bởi v́
trước
kia
bạn cũng thích, nên bây giờ bạn mới thích. Nếu nh́n thấy một vật hoàn
toàn mới, không biết nó là cái ǵ, bạn sẽ không thể khởi yêu ghét.
Bạn chỉ nghĩ: Cái này là cái ǵ nhỉ? Như vậy, nó là quy định quá
khứ. Chẳng hạn ở Miến Điện rất nhiều người thích ăn loại mắm cá
nghiền vụn như bột. Nó dinh dính
và rất nặng mùi. Đó là quy định, là
điều kiện hoá.
Thấy mà không lẫn với bất
cứ điều ǵ, không lẫn với kư ức; đó chính là nhăn thức. Nó không yêu cũng chẳng ghét, chỉ có kư ức đi cùng
với suy nghĩ khiến nó trở thành thích hay không
thích.
Khi bạn nh́n thấy cái ǵ ḿnh thích, đó là do quy định quá khứ. Khi thấy
một vật bạn
chưa hề
biết, bạn
chỉ có mỗi
cái tâm này: “ Nó là cái ǵ ấy nhỉ?”
Bạn không quyết định có
thích hay không. Yêu hay ghét là do bị điều kiện hoá.
Chúng ta có thể hoá giải được nó.
Chẳng hạn, bạn đă sống ở
đây từ nhiều năm, song trước khi đến đây, có rất nhiều đều bạn chưa
từng biết. Đến giờ, sau một thời gian dài đă quen với đồ ăn thức
uống, với những điều tai nghe, mắt thấy ở đây bạn lại đâm ra thích
chúng. Trước kia th́ bạn không biết là ḿnh
có thích
hay không.
Có khi
chúng
ta ăn món ǵ đó mà cũng không chắc là ḿnh có thích hay không nữa. Nhưng
khi ăn lại nhiều lần, dần dần quen khẩu vị th́ lại bắt đầu thích.
Chẳng hạn, trước khi đến đây tôi chưa bao giờ uống sữa đậu nành, bây
giờ tôi thử uống một chút và bắt đầu quen với vị của nó. Tối bắt đầu
thích và bây giờ tôi đang
phát triển
tâm tham
của ḿnh
lên.
Hỏi và đáp:
Đó là một
câu hỏi rất hay. Chưa phát triển đầy đủ năng lực của
tuệ thứ nhất th́ bạn chưa thể chuyển qua tuệ tiếp theo được;
một tuệ giác này sẽ dẫn đến tuệ giác tiếp theo khi nó đă sẵn
sàng, khi nó đă
phát triển đầy đủ và
đủ nội
lực để
dẫn đến
tuệ giác
tiếp
theo. Nhưng chúng ta không thể tự chuyển sang tầng tuệ khác được. Chúng
ta không thể làm được điều đó, nó sẽ tự xảy ra. Cám ơn bạn rất nhiều về
câu hỏi đó.
Đừng vội vàng. Đứng lại tại chỗ
ḿnh đang đứng và phát triển cho đủ độ sâu sắc, bạn không thể tự ép buộc ḿnh quá mức
---o0o---
Mục Lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05
06 |
07 |
08 |
09 |10
|11
BACK
|