|
Bản Đồ
Hành Trình
Tâm Linh
Thiền Sư
Sayadaw U Jotika
Tỳ Kheo Tâm Pháp
dịch
Chương
9:
Tuệ thứ
mười một:
Tuệ Xả Hành, cánh cửa đi vào các tuệ giác cận Niết Bàn và sau
đó
Phần
1:
Tuệ thứ
mười một:
Tuệ Xả Hành, cánh
cửa đi vào các tuệ giác cận Niết Bàn và sau đó
Khi tâm đã phát triển đủ
năng lực, nó sẽ
buông bỏ
tất cả
các hành
và thể nhập vào
Niết Bàn (sabbam,
sankhara-pavattam
viasjjetva Nibbanam eva pakkhandati). Nếu chưa
thể làm
được điều
đó, tâm
sẽ lại quay
trở lại quán
sát các
hành,
quán
sát sự sanh diệt của tiến
trình tâm- vật lý (no ce passati punappuna sankhararammanam eva tuva
pavattati). Điều này sẽ còn xảy diễn lại nhiều lần. Đôi lúc tâm muốn
với tới Niết Bàn nhưng lại chưa đủ sức mạnh để làm điều đó. Nó rơi
trở lại và quán sát các tiến trình thân-tâm sanh diệt cho đến khi
tích lũy đủ sự sáng suốt, rõ ràng.
Tuệ thứ mười một:
Tuệ Xả Hành, cánh
cửa đi vào các tuệ giác cận Niết Bàn và sau đó
Tuần
trước tôi
đã nói
về Tuệ Diệt,
bhanga-nana, Tuệ Thấy Nguy hiểm
bhaya-nana, Tuệ thấy sự khiếm khuyết
của tiến
trình tâm
–
vật
lý
adinava-nana, Tuệ
Yếm ly nibbida- nana,
Tuệ Muốn Giải thoát – muncitukamyata-nana, và Tuệ Giản trạchpatisankha-nana rất quan trọng. Để thoát ra khỏi điều gì, trước hết chúng ta
cần phải hiểu được nó, và để hiểu thì chúng ta phải quan sát một
cách thật cẩn thận, bằng không sẽ không có cách nào vượt qua được
bất cứ cái gì, ngay cả ở mức độ thông thường, trong cơ thể chúng ta,
trong cuộc sống hay trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng thế.
Điều đầu tiên cần phải có
để vượt qua mọi thứ là quan sát nó thật kỹ, hiểu thật sâu sắc, đầy
đủ rồi vượt qua nó. Chúng
ta không
thể chạy
trốn.
Trốn
chạy không phải là vượt
qua. Không có chỗ nào để trốn, không có nơi nào để đi cả.
Người Miến Điện thường nói là: “Không có đất để chui”. Dù đi bất cứ chỗ
nào, bạn cũng ở trong tiến trình đó, tiến trình tâm-vật lý, bạn luôn
phải mang nó đi cùng. Chỉ bằng tri kiến chúng ta mới vượt qua được
nó. Khi cảm thấy mình bị mắc kẹt trong tiến trình này, chúng ta muốn
thoát ra khỏi nó. Đôi khi chúng ta nghĩ: “Nếu tôi không chú ý đến
những thứ này nữa, chỉ quay mặt đi và quên hết về chúng, tôi sẽ
thoát khỏi chúng”. Không, đó không phải là một việc làm đúng đắn.
Hành giả sẽ đạt đến thời điểm mà vị ấy cảm thấy rằng việc quan sát tiến
trình tâm-vật lý này thật là nhàm chán, không có gì là tốt đẹp ở đó
cả. Chỉ quan sát nó chúng ta sẽ không bao giờ đạt tới bình an. Trong
giai đoạn đầu, bạn cảm thấy rất tĩnh lặng và anh lạc bởi vì những
phiền não loại thô đã bị dẹp bỏ tạm thời. Nhưng sau một thời gian,
việc quan sát tiến trình thân-tâm trở nên rất mệt mỏi chứ không chỉ
là nhàm chán nữa. Chúng ta bị mắc kẹt trong tiến trình ấy. Chúng ta
không muốn nhìn nó nữa, chúng ta đã thực sự mệt mỏi vì nó. Nhưng
không có cách nào thoát khỏi nó được cả, ngoài cách chú tâm hơn,
nhìn nó kỹ hơn nữa. Nhìn nó
với sự
chú tâm
mạnh và
sâu
sắc,
tâm sẽ trở nên tĩnh lặng hơn. Niệm và Định sẽ mạnh mẽ, sau đó tâm sẽ trở
nên buông xả - đó gọi là Tuệ Xả hành
(sankharupekkha-nana).
Bạn vẫn quan sát nó rất kỹ,
nhưng với một nội tâm
hoàn toàn buông xả, một thái độ hoàn toàn xả ly, không tự
đồng hóa. Bạn không thấy nó là một cái ngã nào nữa, mà chỉ với sự xả
ly và quân bình, song sự chú tâm sẽ rất
mạnh.
Sankhara (hành) là
bất cứ pháp nào bị cấu tạo, bị điều kiện hóa, thực ra nó nghĩa
là tiến
trình tâm-vật
lý. Tiến
trình này được gọi là hành (sankhara), và xả (upekkha)
nghĩa là
sự quân
bình. Xả
có
rất nhiều đặc tính: nó là sức mạnh của sự cân bằng; bạn không cố gắng
quá mức, cũng không thư giãn, buông thả quá mức bởi vì cả hai thái
cực này đều là không quân bình. Cố gắng quá mức là không quân bình;
buông thả quá mức và dễ
dãi, xem nhẹ cũng là không quân bình. Trước giai đoạn này, bạn nóng
lòng để vượt qua, “Tôi muốn thoát ra khỏi nó, tôi muốn vượt qua
nó, tôi muốn trốn thoát nó”. Đó cũng là một loại trạo cử và bất
an trong tâm, một trạng thái tâm thiếu quân bình.
Khi đạt tới Tuệ Xả hành này, bạn không còn nóng lòng vượt qua nữa. Với
tâm xả, bạn chỉ hoàn toàn chú tâm. Thậm
chí trước
giai đoạn
này, khi
ở
tầng tuệ thứ tư,
Udayabbaya-nana, Tuệ Sanh Diệt, bạn đã đạt được một mức xả, một
mức quân bình nào đó, nhưng ở tầng tuệ đó thì chỉ thỉnh thoảng tâm
xả mới xuất hiện. Đôi khi bạn có rất nhiều hỷ lạc, có lúc lại thấy
rất hạnh phúc, có lúc thấy biết rõ ràng và thậm chí bạn còn dính mắc
vào tuệ giác sáng suốt đó nữa. Ở giai đoạn này, ngay cả sự thấy biết
rõ ràng cũng không làm bạn dính mắc nữa, không dính mắc vào cả trạng
thái xả này. Ở Tuệ Sanh Diệt, bạn cảm thấy rất
tĩnh lặng và quân bình và rất thích thú với điều đó. Việc
hành thiền trở nên
rất dễ dàng, nó cứ
tự động diễn ra, nhưng bạn thường xuyên tuột khỏi nó. Ở giai
đoạn này bạn không còn
đánh mất
nó nữa.
Bạn tiếp
tục
thực
hành và duy trì nó, tâm xả ở lại với bạn trong một thời gian dài. Bạn
cảm thấy vô cùng buông xả đến mức tâm xả này được so sánh với tâm xả
của một vị Alahán. Một vị Alahán ở trong trạng thái tâm đó suốt
ngày. Một người chưa đắc đạo có thể ở trong trạng thái bằng cách giữ
chánh niệm liên tục, nhưng đối với một vị Thánh Alahán, chánh niệm
luôn có một cách tự nhiên. Vị ấy không bao giờ để mất tâm xả và
chánh niệm.
Thực ra, trong các tầng tuệ
minh sát (Vipassana-nana), chỉ có ba loại tuệ giác là vô thường, khổ
và vô ngã, nhưng do mức độ kinh nghiệm khác nhau
về vô
thường, khổ,
vô ngã
mà
tạo thành các tầng tuệ giác
khác nhau.
Ở Miến Điện, có một thiền sư chỉ nói về 3 loại tuệ giác này: thấy được
vô thường, trở nên nhàm chán vô thường và sự chấm dứt của vô thường.
Ngay cả trước đó, hành giả
cũng đã kinh nghiệm được một số tính chất xả ở một mức độ nhất định.
Chỉ ở giai đoạn này, xả mới được đầy đủ và hoàn toàn.
Sankharava
sankhare vipassanti.
~Vsm 628
Vipasanti
nghĩa là quan sát sâu sắc,
theo một cách đặc biệt. Chúng ta thường
nhìn nhận
và hiểu
biết mọi
sự
theo cách thông thường, nhưng ở tầng tuệ này chúng ta nhìn mọi việc một
cách hoàn toàn khác, rất sáng suốt, rõ ràng. Sankharavanghĩa
là chỉ
là hành.
Sankhare nghĩa là “ở các hành”. Chữ
Sankhara đầu tiên có nghĩa là tâm đang quan sát. Chữsankhara
thứ hai nghĩa là “ở các hành” hay “hướng về các hành”,
tức là đề mục. Nó có thể là thân, thọ hay tâm hay bất cứ uẩn nào
trong ngũ
uẩn. Vipassanti
nghĩa là quan
sát. Một tiến trình này đang quan sát một tiến trình khác, không còn
là tôi, ta gì nữa. Ở giai đoạn này, điều đó trở nên rõ ràng đến mức
bạn thực sự cảm nhận được nó: “không có cái tôi nào đang quan sát
những điều này cả”. Để
có bước
đột phá,
quá trình
phi
đồng
hóa hoàn toàn này là rất cần thiết và phải có được một sự quân bình vững
mạnh như thế.
Xả có rất nhiều nghĩa, khổ và lạc; không khổ không lạc cũng được gọi là
xả. Hạnh phúc là một thái cực, đau khổ là một thái cực khác; không
hạnh phúc cũng chẳng đau khổ là xả. Ở giai đoạn này, hành giả không
hạnh phúc cũng chẳng đau khổ. Trước đó, có lúc bạn
rất vui vì thấy mọi thứ một cách hết
sức rõ ràng và sáng suốt. Lúc khác lại thấy khổ vì bị mắc kẹt
trong tiến trình, nhưng giờ đây thì không vui cũng chẳng buồn, hoàn
toàn quân bình, hoàn toàn bình thản. Trước kia thì tinh tấn
có lúc
quá mạnh,
có lúc
lại quá
yếu,
nhưng bây giờ tinh tấn rất đúng mức, không quá nhiều cũng không quá ít.
Trước kia chúng ta quan sát các hành, bất cứ tiến trình nào cũng
thấy là bất toàn và khiếm khuyết, thấy chúng như cái gì đó không tốt
đẹp, tiến trình này không phải là điều tốt đẹp. Chúng ta khổ vì điều
đó, nhưng đây không phải là loại khổ tiêu cực. Chúng ta trở nên nhàm
chán và yếm ly.
Ở giai đoạn này không còn
khổ vì điều đó nữa. Trước đó thì “muốn thoát khỏi và suy nghĩ xem
phải làm gì đối với nó”. Bây giờ không còn ý muốn giải thoát hay làm
bất cứ điều gì nữa. Chỉ còn sự chú tâm hoàn toàn, ngay cả
việc này
cũng trở
thành
đơn giản. Thiền tập trở nên
rất đơn
giản.
Ở trước giai đoạn này, có lúc vì thấy tiến trình tâm-vật lý thật khiếm
khuyết, bất toàn nên bạn không muốn chú tâm hoàn toàn vào nó. Do đó
bạn quay lưng lại với nó và nghĩ rằng thiền tập của mình không đáng
hài lòng, không còn tốt
đẹp như xưa nữa. Nhưng giờ
này thì không còn như thế nữa. Tâm bạn hoàn toàn buông xả,
hoàn toàn không tự đồng hóa, không còn mong muốn phải khác đi, chỉ
quan sát, rất đơn giản. Đây là trạng thái tâm tuyệt vời nhất, không
muốn làm bất cứ điều gì, chỉ hoàn toàn chú tâm. Hãy tưởng tượng
trạng thái tâm ấy
và thấy
mình được
giải
thoát
như thế nào; bạn không muốn trở thành cái gì khác. Dù bất cứ điều gì xảy
ra cũng không còn quan trọng nữa, chỉ chú tâm một cách hoàn toàn.
Ngay cả hoạt động suy nghĩ hay tưởng tượng cũng làm bạn rất an lạc,
rất bình an.
Cả cuộc đời chúng ta đã nắm giữ, chấp thủ hoặc chối bỏ, xua đuổi tất
thảy mọi thứ. Toàn bộ thời
gian chúng ta dành ra để làm hai việc đó: chấp thủ và nắm giữ, cố
gắng giữ chặt mọi thứ hoặc là xua đuổi nó. Điều đó thật là mệt mỏi.
Trong trạng thái tâm này,
chúng ta không còn nắm giữ bất cứ điều gì, không chối bỏ, xua đuổi
cái gì, chỉ hoàn toàn
chú tâm.
Theo một
cách
nào đó, đó là sự đầu hàng
hoàn toàn đối với
tiến trình.
Dù bất
cứ sự
việc gì diễn ra, tôi sẽ vẫn hoàn toàn chú tâm. Đây chính là
thái độ chân chánh.
Ở giai
đoạn này, bạn không lo lắng về bất cứ việc gì nữa.
Thậm chí nếu có chết ngay lúc đó, bạn cũng cảm thấy hoàn toàn
OK, hoàn toàn bình thản.
Một ngày nào đó chúng ta sẽ chết, và cách chết tốt nhất là chết với
trạng thái tâm như vậy, hoàn toàn chấp nhận tiến trình, hoàn toàn
chú tâm và hiểu biết nó, không kháng cự, không sợ
hãi! Đây là trạng thái tâm tốt nhất có được khi chúng ta
chết.
Một lần tôi đã kể với các
bạn rằng đã mấy lần tôi ốm rất nặng, bị sốt rét, viêm Amiđan, kiết
lỵ mãn tính kéo dài suốt
nhiều tháng trời. Tôi cực kỳ
yếu ớt và sắp
chết. Lúc đầu, thực sự tôi rất sợ chết.
Tôi không
muốn chết.
Tôi nói:
“không, tôi muốn sống.”
Nhưng càng cố gắng níu kép sự sống tôi càng kiệt
sức, bởi
vì tôi
lo sợ
quá nhiều.
“Phải có ai làm điều gì đó giúp tôi chứ, sao không có ai
làm gì cả thế này, tại sao mọi người bó tay bỏ cuộc cả thế này;
không có ai ở bên cạnh tôi cả”.
Vì không thể cựa quậy gì được nữa,
nên tôi
không thể
gọi ai.
Tôi nghĩ
“Tại sao họ lại bỏ mặc mình, bỏ đi hết, không làm gì cho
mình thế này?”. Suy
nghĩ đó
làm cho
tôi
thêm
khổ sở và kiệt sức hơn nữa.
Cuối cùng tôi nghĩ: “có thể họ bỏ cuộc bởi vì không thể làm gì
hơn được nữa”. Một người bạn tôi nói:
“Có lẽ ông ấy đã hôn mê
bất tỉnh”, bởi vì lúc đó tôi không còn cử động được nữa. Tôi đã
cố gắng bám níu vào sự sống cả một thời gian dài, nhưng đến
một thời điểm tôi trở nên kiệt sức và tôi nghĩ có lẽ mình ngủ đi thì
sẽ rất thoải mái; ngủ một cách thật bình yên. Thế là tôi
quyết định buông bỏ tất cả. Nhưng tôi đã lập một quyết tâm
rất quan trọng. Tôi nghĩ: “Nếu như phải chết, tôi sẽ chết một cách chánh niệm”,
rồi
buông bỏ tất cả mọi suy nghĩ, giữ tâm thật thư giãn, thoải
mái, thật tĩnh lặng và duy trì chánh
niệm. Chầm
chậm, tâm
tôi
trở
nên bình an hơn và tôi nhận ra rằng mình không còn mệt mỏi nữa; sự mệt
mỏi đã biến mất, tâm trở nên tĩnh lặng và bình yên và tôi rơi vào
giấc ngủ. Khi tôi thức
dậy, tâm rất tĩnh lặng và bình an. Tôi không thể cử động hay nói
được gì cả và tôi nghĩ rằng nếu mình chết vào lúc đó thì chắc là
cũng tốt
thôi.
Tại sao chúng ta sợ chết?
Bởi vì chúng ta dính mắc, nếu không dính mắc thì sẽ không có lo sợ.
Thiền là một sự chuẩn bị rất tốt cho cái chết, nó rất cần thiết, rất
quan trọng. Con người ta thường không muốn nghĩ đến cái chết. Mỗi
khi nhắn đến cái chết là họ đã không muốn nghe
tý nào,
họ không
muốn
nói
chuyện về nó, họ chỉ muốn nói chuyện về sự sống mà thôi. Nhưng:
Những
người chuẩn bị cho cái chết mới là những người sẵn sàng để
sống. Hầu
hết mọi
người, mặc
dù vẫn đang sống đấy nhưng không sống thực sự,
chúng ta chống đối cuộc
sống quá nhiều. Chúng ta không thực sự chú tâm và học hỏi đầy đủ từ
cuộc sống của mình.
Mỗi khi nghĩ về tầng tuệ
này, tôi thấy nó là tuệ giác tuyệt vời nhất. Bởi vì chúng ta không
thể chết với tâm đạo và tâm quả (magga, phala), ngay cả Đức
Phật cũng
không làm
như vậy,
Ngài
không thể làm được điều đó. Ở trạng thái này, tâm không hề sợ hãi; nó
rất trong sạch và sáng suốt. Tâm rất quân bình và an lạc, bình yên,
không khích động, không phấn khởi, không vui sướng, hạnh phúc, chỉ
hết sức bình an. Không có trạng thái tâm hiệp thế nào so sánh được
với nó. Không cố gắng, không căng thẳng, không bó buộc, Trước giai
đoạn này, chúng ta cố gắng rất nhiều để tập trung, hành thiền, chúng
ta bị bó buộc và phải tự nhắc mình thư giãn ra, nhưng ở giai đoạn
này mọi thứ đều rất dịu mềm, nhẹ nhàng, nhu nhuyễn, thư giãn và
thoải mái. Mặc dù tâm rất an lạc, nhưng không hề dính mắc vào sự an
lạc đó. Đây
là điểm
rất quan
trọng. Trước
đây,
chúng ta cảm nhận được sự an lạc, ngay cả ở tầng tuệ thứ tư, nhưng lại
dính mắc vào nó và nó trở thành một trở ngại.
An lạc bản thân nó không
phải là một trở ngại.
Song
dính mắc vào sự an
lạc đó
mới là trở ngại. Ở tầng tuệ này không còn một chút dính mắc nào nữa.
Đó là lý do tại sao nó rất trong
sạch.
Dính mắc là một loại khao khát, mong cầu, một loại tham (lobha).
Tâm bạn không còn phấn khích vì bất cứ chuyện gì nữa. Ở tầng tuệ thứ
tư, nhiều khi tâm bạn còn rất phấn khởi, rất hạnh phúc, nhưng
giờ đây
bạn không
còn sự phấn
khích như vậy nữa. Rất vi tế, rất sáng suốt, rất chính xác, đúng chỗ và
đúng ngay thời điểm, mọi sự nhận biêt đều rất đúng chỗ, không trước
không sau. Ở giai đoạn
đầu, đôi khi chánh niệm hay sự chú ý còn bị chậm lại ở đằng sau. Một
sự việc vừa diễn ra, xong rồi chúng ta mới nhớ là có một việc vừa
xảy ra và chúng ta đã không chú ý. Đôi khi chúng ta lại chờ đợi một
điều gì đó diễn ra và nói:
“Rồi sẽ có điều gì đó lại diễn ra nữa, khi đó tôi sẽ chú ý
đến nó”. Giống như
khi di chuyển, chúng ta
nghĩ rằng: “Tôi chuẩn bị chuyển động và tôi sẽ chú ý vào điều đó”.
Sự chú ý của chúng ta hơi lệch ra ngoài một chút, không đúng chỗ. Ở
giai đoạn này, nó
luôn luôn
sẵn sàng
một cách
tự
nhiên và đúng chỗ. Một điều gì đó đang diễn ra, sự hay biết và chú ý đã
sẵn sàng có mặt ở đó. Đó là lý do tại sao chúng ta không phải cố
gắng hoặc lo lắng quá mức trong khi chú ý. Nó diễn ra một cách rất
hoàn hảo.
Evamevayam
sabbasankharehi
muncitukamo
hutva
patisankhanupassanaya
sankhare parigganhanto:
aham, mama ti gahetabbam. Adisva, bhayan ca nindin ca vippahay,
sabbasankharesu udasino hoti majjhatto.
~Vsm 656
Do vậy (Evameva)
muốn giải thoát (muncitukamo hutva) khỏi tất cả các hành
(sabbasankharehi),
bằng
cách
quán sát lại các hành (patisankhanupassanaya),
quan sát các hành (sankhare parigganhanto), không coi nó là
“tôi” hay “của tôi” (aham,
mama
ti
gahetabbam adisva).
Gahetabbam nghĩa là cầm nắm, thủ giữ;
adisva nghĩa
là không thấy; aham là “tôi”,mama là “của tôi”.
Mỗi khi quán sát các hành,
bạn biết rằng chúng không phải là tôi, không phải của tôi, không có
gì đáng để dính mắc vào chúng cả, bạn không thể giữ lại được cái gì,
không đáng phải rắc rối vì chúng. Trong mọi sự hay biết, bạn thấy rõ
đây không phải là tôi, không phải là của tôi, bạn không quan tâm và
hoàn toàn
thờ ơ
với nó.
Trước
giai
đoạn này, bạn thấy nó như một nỗi hiểm
nguy, đến
giờ bạn
không còn
thấy nó là nguy hiểm, không thích cũng chẳng không thích nữa.
Vipphayanghĩa là đoạn trừ, vượt qua, vượt qua nỗi sợ
hãi (udasino hoti majjhatto) trong tất
cả các tiến trình (sabbasankharesu); không thiên về
bên này, cũng chẳng lệch về bên kia.
Thực
ra đây
chính là
trung đạo; Chúng ta
đang đến rất gần với trung đạo thực sự. Trước giai đoạn này, tâm khi
ở bên này, lúc chạy bên kia,
không bao
giờ đứng giữa.
Majhatto nghĩa là đúng
ngay chính giữa.
Khi bạn
nghỉ ngơi
đôi chút,
ngay cả
khi đang thư giãn thoải mái, tâm bạn vẫn rất chánh niệm. Một
ý nghĩ ngắn ngủi nào đó có thể sẽ thoáng qua rất nhanh; thậm chí
chẳng kéo dài đến một giây. Khi tôi nói suy nghĩ, đừng nghĩ là lúc
đó bạn nghĩ dài thành hẳn một câu hay chữ. Vào lúc đó, không hề có
ngôn từ hay câu nói nào; bạn chỉ thấy rõ rằng: đây chỉ là một tiến
trình trống rỗng, không phải chúng sanh, không phải “tôi”, không có
chúng sanh, không có linh hồn nào cả.
Sunnamidam attena va attaniyena va ti.
~MN iii.263
Tiến trình này không có cái gì là “tôi”, của tôi hay thuộc về tôi cả.
Những tuệ giác và suy nghĩ tương tự như vậy đã có trước đây, nhưng ở
giai đoạn này nó ngày càng rõ rệt hơn. Tiến trình này không tuân
theo ý muốn của ai; bạn có thể thấy rõ điều đó, đó chính là điều
đang diễn ra.
Puna
caparam,
bhikkhave, ariyasavako
iti patisancikkhati – naham kvacani kassaci kincanatasmim na ca mama
kvacani kisminci
kincanam nathi
ti ~MN
iii.263-4
naham
kvacani
kassaci kincanatasmim:
Tôi không
cần lo lắng điều gì cả, và
cũng không cần ai phải
lo
lắng cho tôi. Đôi khi,
trong những suy nghĩ thường tục mỗi ngày, chúng ta lo lắng về người
khác và có lúc cũng bận lòng rằng có người khác cũng đang lo lắng
cho mình, và chúng ta thích được như thế,
“Ồ, có người đang quan tâm, lo lắng cho mình kìa”.Nhưng
bây giờ, bạn sẽ thấy:
“Tôi không cần quan tâm, lo lắng về bất cứ điều gì, bất cứ người nào
và cũng chẳng cần ai phải lo lắng cho tôi”. Không có một cái gì
ở đó cả. Chỉ là những tiến trình thôi.
Có rất nhiều lời diễn giải
chi tiết trong kinh điển,
nhưng nó
chỉ hữu
ích đối
với các học giả. Sau
đây là
một đoạn
nói về giai đoạn
này:
Evam eva sace
sankharupekkhananam santipadam Nibbanam santato passati, sabbam,
sankhara-pavattam Viasjjetva Nibbanam eva pakkhandati; no ce
passati
Punappuna
sankhararammanam eva tuva
pavattati.~Vsm
657
Ở giai đoạn này, hành giả
thấy rõ: nơi chấm dứt của tiến trình này mới là sự an lạc thực sự (santipadam
Nibbanam santato passati). Chúng ta luôn mong muốn có một hình
thể nào đó, có một đời sống nào đó, ở trong một trạng thái nào đó.
Chúng ta khao khát điều đó. Chúng ta không muốn từ bỏ tất cả mọi
hình thể, mọi kiếp sống. Nhưng ở giai đoạn này,
tâm có thể thấy rất
rõ rằng
sự
chấm dứt của tiến trình mới là bến bờ bình an đích thực. Trước khi tâm
hội đủ năng lượng và sự
sáng suốt để từ bỏ tiến trình, mặc dù hành giả có thể hiểu được rằng
tất cả mọi tiến trình đều là bất toại nguyện, song tâm vẫn rơi trở
lại quán sát tiến trình.
Khi tâm đã phát triển đủ
năng lực, nó sẽ
buông bỏ
tất cả
các hành
và thể nhập vào Niết Bàn (sabbam, sankhara- pavattam viasjjetva
Nibbanam eva pakkhandati). Nếu chưa thể làm được điều đó, tâm sẽ lại quay trở lại quán
sát các hành, quán sát sự sanh diệt của tiến trình tâm-vật lý (no
ce passati punappuna sankhararammanam eva tuva
pavattati). Điều
này sẽ
còn
xảy
diễn lại nhiều lần. Đôi lúc tâm muốn với tới Niết Bàn nhưng lại chưa đủ
sức mạnh để làm điều đó. Nó rơi trở lại và quán sát các tiến trình
thân-tâm sanh diệt cho đến khi tích lũy đủ sự sáng suốt, rõ ràng.
Khi sự việc xảy ra như vậy, hành giả cần phải hiểu tiến trình đó.
Một số người trở nên nản chí và nói: “Tôi cứ bị rơi trở lại hoài”.
Tuy nhiên, điều này là rất tự nhiên. Mấy tuần trước tôi đã giảng cho
các bạn ẩn dụ: có người túm đầu một sợi dây để băng một vực sâu nằm
giữa hai mỏm núi, giống như một cái khe sâu ở giữa. Có một cái cây
và một giàn dây leo rất dày trên đó. Bạm túm vào một sợi dây và đu
qua đu lại; nhưng khi cảm thấy sức
đu của
mình chưa
đủ mạnh,
bạn
sợ
rằng nếu buông ra sớm thì sẽ rơi xuống đáy vực. Vì vậy bạn chưa thể
buông sợi dây ra và đu
ngược trở lại về bờ
bên
này. Rồi bạn lấy thêm đà và đu lại lần nữa. Sau một vài lần như vậy,
khi cảm thấy mình đã tạo đủ đà quán tính, bạn đu qua rồi buông tay
ra và bay nhanh, rất nhanh sang bờ bên kia…
bạn buông tay ra khỏi sợi dây. Vào lúc đó, bạn không ở bờ
này, cũng chưa sang tới bờ kia. Bạn ở giữa hai bờ, nhưng bạn đã từ
bỏ bờ bên này. Bạn có thể quay trở lại được không? Không, không còn
đường lui nữa, bởi vì bạn đã buông sợi dây mất rồi. Mặc dù chưa sang
được tới bờ bên kia, nhưng bạn đang bay sang đó với tất cả sức mạnh
và đà quán
tính mà
mình đã
xây
dựng
được. Không còn cách nào dừng lại được nữa. Từ bỏ bờ bên này nghĩa là
bạn không còn quán sát các hiện tượng tâm-vật lý nữa, bạn thấy tâm
đang tiến đến một sự đoạn diệt hoàn toàn, tiến đến điểm chấm dứt tất
cả các hiện tượng tâm-vật lý.
Như
vậy,
từ
Tuệ
Xả
Hành (sankharupekkha-nana),
tuệ giác
tiếp theo, nếu và
khi nó xảy ra, là trạng thái này,
nói đó
bạn buông
bỏ. Trạng
thái
đu
đưa
qua
lại
này được
gọi là
sankharupekkha
và parikamma anuloma gotrabhu
(chuẩn bị, thuận thứ và
chuyển tánh).
Parikamma nghĩa là cố gắng
lại nhiều
lần, chuẩn
bị tâm
mình
và phát
triển
đà
quán
tính. Anulomanghĩa là
cũng một trạng thái tâm đó nhưng có nhiều đà quán tính hơn.
Gotrabhu nghĩa là bạn đã buông bỏ, nghĩa là bạn đã cắt rời khỏi bờ này
nhưng vẫn chưa sang tới bờ
kia.
Sau đó hành giả rơi vào sự đoạn diệt của tiến trình tâm-vật lý, Niết
Bàn, được gọi là tâm đạo (magga). Nó xảy ra rất nhanh, tiếp
nối trong một sát na ngắn ngủi, có thể chỉ một phần ngàn hay một
phần triệu giây đồng hồ. Các trạng thái tâm xảy ra liên tiếp, và
trong khoảnh khắc đó bạn không thể
quay trở lại được nữa. Sau đó là một sự tĩnh lặng hoàn toàn,
hoàn toàn yên lặng, không
có gì sanh,
không có
gì
diệt,
không còn sự quan sát bởi vì bạn
không thể quan sát được nữa.
Trước khi tiến vào cảnh
giới Niết Bàn bạn nhìn ngắm từ bên ngoài để xem nó sẽ như thế nào,
bởi vì bạn hiểu rằng nếu tiến trình tâm-vật lý này dừng lại thì đó
sẽ là một sự bình an hoàn toàn, nhưng bạn vẫn chưa ở trong đó. Khi ở
trong đó rồi, bạn sẽ không thể quan sát được nữa. Bởi vì để có thể
quan sát được nó, bạn phải thoát ra ngoài nó đã. Đó là lý do vì sao
khi ở trong cảnh giới Niết
Bàn này, hành giả
không còn quán sát được Niết Bàn nữa; không thể quán sát được. Thậm
chí cũng không thể quan sát được trạng thái tâm của mình như thế nào
nữa.
Chỉ sau trạng thái này mới có một tuệ giác khác sanh lên gọi là Phản
Khán Tuệ (paccavekkhana), trong đó bạn sẽ nhớ lại: “Có một
điều gì đó vừa mới xảy ra! Một khoảnh khắc trước đây rất an lạc,
không còn sanh diệt, rất tĩnh lặng, rất sáng suốt, hoàn toàn bình
an”. Phóng vào hay tiến vào sự đoạn diệt là một trạng thái tâm đầy
sức mạnh. Một khi điều đó xảy ra, bạn sẽ cảm nhận hoàn toàn khác
biệt. Sau một thoáng, bạn ra khỏi trạng thái đó, bởi vì tâm đạo chỉ
diễn ra trong một sát na, tâm quả diễn ra trong 2 hoặc 3 sát na, tùy
thuộc vào sức mạnh của nó. Rồi sau đó bạn quán sát lại những gì đã
xảy ra. Khi sự
quán sát
này diễn
ra, tâm
rất
tĩnh lặng và an lạc, bạn nhìn lại và suy nghĩ về nó. Tuệ Phản Khán này (paccavekkhana-nana)
thực chất
là một loại suy
nghĩ. Bạn nghĩ lại và hiểu rằng an lạc tuyệt đối chính là sự đoạn
diệt hoàn toàn của tiến trình tâm-vật lý.
Hành
giả quán
sát lại
nhiều thứ,
về đạo, quả, Niết
Bàn, những loại phiền não đã bị tận diệt và những phiền não còn lại.
Giai đoạn giác ngộ đầu tiên tận diệt tà kiến chấp ngã và nghi (ditthi
& vicikiccha), hoàn toàn tận diệt. Ngay trong tầng tuệ đầu tiên
bạn đã vượt qua một số thân kiến và hồ nghi về những điều xảy ra
trước đây và sau này và nhiều
nỗi nghi hoặc
khác. Ở
giai
đoạn
này tà kiến chấp ngã và
nghi đã bị tận
diệt hoàn
toàn.
Sau đây là một số đoạn kinh
nói về vấn đề này:
Tikkhavisadasurabhavena
sankharesuajjhupekkhane
Sijjhamane tam panetam sankharupekkha-nanam anekavaram pavattamanam
paripakagamanena anulomananassa paccayabhavam
gacchantam
VsmA II, 459
Tikkha nghĩa là rất sắc bén. Visada nghĩa là rất rõ ràng, surabhavena
nghĩa là rất quan trọng, sura nghĩa là rất dũng cảm.
Chúng ta
quá dính
mắc với
mọi
thứ đến mức ngay cả khi chúng rất đau đớn, chúng ta cũng không thể từ bỏ
được. Ngay cả việc từ bỏ, chúng ta cũng
cần phải
có rất nhiều
sự dũng
cảm và tin
tưởng trong
tiến trình;
đó là
lý do tại sao đôi
lúc có người có thể cảm nhận được rằng: có một điều gì đó chuẩn bị
xảy ra và nếu nó xảy ra, tất cả mọi thứ sẽ thay đổi. “Tôi sẽ không
còn như cũ nữa” và rồi họ dừng lại ở đó, họ không muốn thay đổi; họ
muốn mọi thứ vẫn như cũ.
Chúng ta có những động cơ
rất mâu thuẫn với
nhau. Chúng
ta muốn
thay đổi, chúng ta muốn giải thoát, chúng ta muốn an lạc,
nhưng chúng ta cũng
muốn mọi
thứ vẫn
y
nguyên
như cũ.
Nhiều nhà tâm lý học đã chỉ ra được điểm này.
Nhiều người bị loạn thần kinh, nhưng họ lại dính mắc vào chính tình
trạng loạn thần kinh đó của mình. Có người bị trầm cảm nhưng họ cũng
dính mắc vào căn bệnh đó. Điều đó thật là khó hiểu nhưng nó lại thực
sự có thật. Mặc dù chúng ta biết tiến trình này rất là mệt mỏi, thật
là đau đớn nhưng khi
thời
điểm đó đến, khi chúng ta thấy có điều gì đó sắp xảy ra và chúng ta
sẽ hoàn toàn thay đổi, chúng ta sẽ không còn như cũ nữa, sẽ không
còn cảm nhận mọi sự như cũ nữa, thì chúng ta lại sợ!
Chúng ta
cần phải có rất nhiều dũng cảm để thay đổi.
Không có thay đổi làm sao có thể trưởng thành được! Nếu muốn
giữ nguyên như cũ thì chúng ta sẽ không thể trưởng thành.
Do đó từ
surabbavena
rất quan trọng. Với rất nhiều can đảm, chúng ta tiếp tục quán
sát các hành (sankharesu ajjhupekkane),
quán sát
các hiện
tượng, tiến trình, sanh và diệt. Tuệ quán về tiến trình (tam
panetam sankharupekkha-nanam) diễn ra nhiều lần (anekavaram
pavattamanam); lặp đi
lặp lại. Nó sẽ
tích lũy
thêm quán tính và động năng để trở thành chín muồi
(paripakagamanena).
Đối với một số tuệ giác, để trở nên thật sự chín, cần phải tái diễn lại
nhiều lần, lặp đi lặp lại để ngày càng mạnh hơn. Nó cũng giống như
sự giận dữ. Nếu bạn nghĩ về một việc gì đó làm mình tức giận, càng
nghĩ bạn càng giận hơn và đến mức bạn bộc phát ra. Nó là một tiến
trình tương tự, bạn quán sát các hành và ngày càng trở nên buông xả
hơn, cho đến khi sẵn sàng từ bỏ… rồi giờ đây bạn buông bỏ!
Khoảnh khắc buông bỏ là
khoảnh khắc bạn được giải thoát. Chúng ta muốn giải thoát, chúng ta bám giữ vào ý tưởng: “Tôi muốn
được giải thoát,
tôi muốn
được
giải thoát”,
thế
nhưng tại sao chúng ta
không buông
bỏ?
Chúng ta vẫn nghĩ rằng trong tiến trình tâm-vật lý này vẫn còn có cái gì
đó đáng giữ, có cái gì đó thuộc về tôi, có cái gì đó tôi thích, mặc
dù có phần tôi không thích nhưng cũng có một phần tôi thích.
Chúng ta
bám víu, chấp thủ vào nó, nhưng khi bạn thực sự thấy được rằng không
có cái gì đáng để giữ cả, không có điều gì để bám víu,
nó không thuộc về tôi, tôi không còn mong muốn nó nữa,
khi bạn hoàn toàn ở trong trạng thái đó bạn sẽ buông bỏ.
Nhiều người đến gặp Sư phụ
tôi, họ thường nói:
“Bạch Ngài, con thực sự không còn muốn sanh lại nữa làm gì, con đã
hoàn toàn nhàm chán với cuộc đời. Cuộc đời thật mệt mỏi, vui ít khổ
nhiều, quá nhiều gáng nặng”. Khi đó tôi mới chỉ là một nhà sư
trẻ, mới thọ giới
được
mấy tháng.
Thầy tôi
trả lời:
“Nếu con thực sự không muốn thì con sẽ không phải nhận nó
nữa”. Tôi rất ngạc nhiên, tôi không muốn nó nhưng… Điều đó thật
đơn giản phải không? Về sau tôi hiểu ra rằng mặc dù chúng ta nói
rằng mình không muốn, nhưng
chúng ta
vẫn bám
giữ vào
nó “Tôi không
muốn, tôi không muốn có
nó”. Tại
sao chúng
ta không
chịu
buông bỏ?
Cách nói
chuyện của
Sư phụ tôi
rất dịu dàng. Thầy không
bao giờ để vào đó quá
nhiều sức mạnh. Thầy không bao giờ cố thuyết phục ai. Không bao giờ
cố cải hóa một ai cả. Nhiều đệ tự
và Phật tử của thầy đều hỏi một câu y như thế, cả các vị sư
và cư sỹ, thầy đều nói: “Nếu con thực sự không muốn nó thì con sẽ không phải nhận nó
nữa; con nhận nó chỉ bởi vì con muốn nó mà thôi”.
Điều đó thật
là đơn giản như thế đấy.
Chúng ta phải nhận bởi vì
chúng ta muốn có. Chúng ta
đau khổ bởi vì chúng ta muốn phải đau khổ, nhưng chúng ta lại thường
chối bỏ nó. Chúng
ta nói
chỉ muốn
được
hạnh
phúc, nhưng hạnh phúc đối
với chúng ta nghĩa là gì?
Thành đạt được điều mình mong ước ư?
Nếu chúng ta thực
sự không còn muốn nó nữa, khi đó
chúng ta sẽ được giải thoát! Lòng can đảm dám thay đổi là
điều rất quan trọng,
chúng
ta cần phải có thật nhiều dũng cảm để thay đổi, để học hỏi và để trưởng thành.
Tôi nghĩ điểm này có rất
nhiều ý nghĩa về tâm lý học: phải thật dũng cảm, và cũng phải thật
trong sạch
---o0o---
Phần
2:
Tuệ thứ
mười một:
Tuệ Xả Hành, cánh
cửa đi vào các tuệ giác cận Niết Bàn và sau đó
Ở những khoảnh khắc đột phá
cuối cùng, một trong ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngã sẽ hiện lên
rất rõ. Chẳng hạn nếu hành giả thấy vô thường, sanh diệt rõ rệt hơn,
vị ấy sẽ thấy vô thường, vô thường, vô thường… rất rõ và sẽ không
chuyển sang đặc tướng khác. Đây là một điểm quan trọng cần ghi nhớ.
Ở giai đoạn đầu, đôi khi bạn chuyển từ
thấy vô thường sang thấy khổ hay vô ngã, cứ tới lui như vậy.
Rồi sau đó, bạn an trụ trong một đặc tướng duy nhất, đặc
tướng đó trở thành
nổi bật.
Tuệ thứ mười một:
Tuệ Xả
Hành, cánh cửa đi vào các tuệ giác cận Niết Bàn và sau đó
Muốn được
giải thoát có nghĩa là muốn được trong sạch.
Nếu thực sự muốn được giải thoát, chúng ta phải tự thanh tịnh
bản thân mình: giới thanh tịnh, định thanh tịnh và tuệ thanh tịnh.
Không có quá trình thanh tịnh hóa chúng ta sẽ không thể được giải
thoát.
Vì thế bộ chú giải đồ sộ về thiền tập này được gọi là Thanh tịnh Đạo (Visuddhi-Magga).
Bằng việc thanh tịnh hóa chúng ta sẽ được giải thoát, điều này rất
rõ ràng. Nếu thực lòng muốn
giải thoát,
chúng ta
phải thực
sự
nhìn sâu vào bên trong mình, tôi đang làm việc gì và với động cơ như thế
nào? Giới hạnh, hành vi, thái độ và động cơ của tôi đã trong sạch
chưa? Tâm tôi đã trong sáng và thanh tịnh chưa? Tôi đã có đủ sự dũng
cảm chưa? Nếu chúng ta xứng đáng với nó, chúng ta sẽ nhận được nó.
Vì vậy, chúng ta phải sống một cuộc đời sao cho xứng đáng với nó.
Chúng ta muốn một điều gì đó nhưng nếu không xứng đáng, chúng ta sẽ
không thể nhận được nó. Bất cứ việc gì cũng thế, tôi muốn được bạn
tôn trọng, nếu tôi xứng đáng với điều đó thì tôi sẽ có nó.Tôi muốn
nhận tấm lòng từ bi của bạn, nếu xứng đáng, tôi sẽ nhận được. Vì
vậy:
Bất cứ điều gì xảy đến
trong cuộc đời chúng ta,
nó đến chỉ vì chúng ta
xứng đáng với nó.
Chúng ta không nhận bất cứ
điều gì một cách không xứng đáng. Nhiều người trong chúng ta thường
hay ca cẩm: “Ôi trời, tại sao điều này lại xảy đến với tôi cơ chứ”.
Hãy tự bảo mình rằng: “Bởi vì tôi đáng phải nhận điều
đó”.
Dù là việc tốt hay xấu, tất
cả mọi thứ xảy đến với chúng ta chỉ vì chúng ta xứng đáng với nó.
Khi đã hiểu rõ điều
này bạn sẽ không còn trách cứ, đổ lỗi
cho ai nữa. Thậm
chí, bạn cũng không
còn đổ
thừa cho
nghiệp
của
mình nữa.
Bạn không trách móc cha mẹ hay chính phủ.
Chúng ta thường đổ trách nhiệm cho người khác hay cho hoàn
cảnh. Chúng ta không nhận lãnh đầy đủ trách nhiệm của mình. Khi đã
thấy rõ mọi sự xảy đến với
bạn bởi vì bạn xứng đáng với nó,
thì bạn mới học hỏi, trưởng thành và thay đổi được.
Khi đó mọi việc sẽ trở nên ngày càng tốt đẹp hơn.
Thái độ đúng đắn này là điều rất quan trọng trong tất cả mọi
việc chúng ta làm.
Ở những khoảnh khắc đột phá
cuối cùng, một trong ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngã sẽ hiện lên
rất rõ. Chẳng hạn nếu hành giả thấy vô thường,
sanh diệt
rõ rệt
hơn, vị
ấy
sẽ
thấy vô thường, vô thường, vô thường… rất rõ và sẽ không chuyển sang đặc
tướng khác. Đây là một điểm quan trọng cần ghi nhớ. Ở giai đoạn đầu,
đôi khi bạn chuyển từ thấy vô thường sang thấy khổ hay vô ngã, cứ
tới lui như vậy. Rồi sau đó, bạn an trụ trong một đặc tướng duy
nhất, đặc tướng đó trở thành nổi bật.
Những điều này sẽ rất khó hiểu nếu
bạn chưa từng kinh nghiệm qua, nhưng khi đã trải qua chúng,
bạn sẽ thấy nó rất tự nhiên. Bạn sẽ thấy đó là một điều hết sức tự
nhiên, mọi việc cần phải
diễn ra theo cách như vậy. Trong khoảnh khắc cuối cùng, hoặc là bạn
sẽ quán sát
tiến trình
vật lý
(sắc uẩn-rupa)
hay tiến trình tâm lý (danh uẩn: thọ, tưởng, hành, thức-vedana,
sanna, sankhara, vinnana). Trong 5 uẩn chỉ
có thể quán sát được một, bởi vì bạn không thể quán sát được
cả 5 uẩn trong cùng một sát na. Một tâm chỉ có thể quan sát được một
đối tượng, bởi vì bạn quán sát nó lại nhiều lần. Chẳng hạn bạn đang
quán sát thọ, bạn sẽ thấy thọ và vô thường, hoặc thọ-khổ hoặc thọ-vô
ngã. Nếu đang quán sát sắc, bạn sẽ thấy sắc là vô thường, khổ hoặc
vô ngã; chỉ một đối tượng và chỉ một
trong ba đặc tướng lặp đi lặp lại. Bạn không chuyển sang đối
tượng khác hay đặc tướng khác. Đây là những điều rất quan trọng cần
phải biết.
Do đó, khi hành thiền bạn chú tâm đến cảm thọ và nó trở nên ngày càng rõ
hơn, hãy an trụ trong đó, điều rất quan trọng là phải làm cho nó trở
nên rõ nét hơn. Với bất cứ trạng thái tâm nào,hãy chú ý đến nó nhiều
lần; làm cho nó ngày càng rõ hơn. Bạn hiểu được tất cả những điều
này một cách tổng quát, nhưng chỉ cần hiểu hoàn toàn đầy đủ một điều
thôi là đủ.
Từ khoảnh khắc buông bỏ đó, tâm không thể quán sát bất cứ uẩn nào trong
ngũ uẩn được nữa; nó không thể thấy vô thường, khổ hoặc vô ngã,
không còn bản ngã. Nó chỉ có thể thấy một sự vắng lặng tuyệt đối, sự
chấm dứt, đoạn
diệt. Khi
đó hành
giả sẽ
hiểu
được rằng, Niết Bàn nghĩa là sự chấm dứt hoàn toàn
của tất
cả các
pháp
hữu
vi. Điều này rất khó diễn
tả; nó không phải là một điều không có thực; bởi vì nếu nói Niết Bàn
là “không có gì tồn tại”, thì chúng ta cũng có thể nói rằng
Niết Bàn không tồn tại.
Niết Bàn
là một kinh nghiệm.
Trong
khoảnh khắc đó, cả đối tượng và tâm quan sát đều chấm dứt. Hành giả cảm thấy tất cả mọi thứ đi đến chỗ kết
thúc.
Làm sao bạn có thể dùng một
ví dụ để diễn tả điều đó được? Cảnh giới này nằm ngoài mọi ngôn từ.
Chúng ta không thể
bàn luận
gì về
nó được
cả.
Nó giống như thể bạn đang mang một gánh nặng thật lớn và bỗng nhiên trút
bỏ được! Hoặc bạn đang kéo một vật rất nặng, rồi sợi dây kéo bỗng
nhiên đứt phựt!
Có một câu kinh Pali diễn
tả điều đó rất ngắn gọn và
rõ ràng:
Yam kinci samudayadhammam,
sabbam tamnirodhamman ti. ~SN v.
423
Samudayadhamman
nghĩa là bản chất sanh. Bất cứ cái gì (yam kinci) có bản chất
sanh khởi, tất cả (sabbam tam) đề phải
diệt tận
(nirodhammam). Bạn
thấy
điều này rất rõ ràng: bất cứ cái gì có sanh thì phải có diệt.
Sau tuệ giác đó, hành giả
quán sát lại kinh nghiệm mình vừa trải qua và thấy rằng sự chấm dứt
của các hành chính là Niết Bàn tối thượng, chính là hạnh phúc viên
mãn. Sau đó một lúc, hành giả sẽ lại tiếp tục quay lại với thiền
tập. Khi trở lại với thiền, hành giả sẽ bắt đầu từ Tuệ Sanh Diệt –
tầng tuệ thứ 4, chứ không phải từ Tuệ Xả Hành nữa. Đây cũng là một
đặc điểm của đạo quả. Sau bước đột phá vào đạo quả bạn lại thấy
lại sanh
diệt, một
cách rất
rõ ràng.
Sự kiện này đem đến một số biến đổi quan trọng. Hành giả đã vượt qua
được thân kiến (sakkaya-ditthi: tà kiến chấp ngã), nghi (vicikicha)
và giới cấm thủ (silabbataparamasa) cũng rất quan trọng. Hiện
nay có rất nhiều phương pháp hành thiền và rất nhiều người học
thiền. Chúng ta có thể nói là họ đang hành thiền, song thiền lại có
rất nhiều khía cạnh. Nếu hành giả tin chắc rằng chỉ cần hành thiền
an chỉ định là có thể mang lại giải thoát viên mãn, thì đó lại là
một loại giới cấm thủ. Ở thời Đức Phật có nhiều tu sĩ ngoại đạo tin
rằng chỉ cần hành động giống như con bò là có thể đạt được giải
thoát, có thể đốt cháy hết phiền não trong mình. Tin rằng
bằng cách
thực hành
cách
sống
như con bò, hay tự hành hạ thân xác sẽ đốt cháy được phiền não và trở
thành thanh tịnh, đó là một loại pháp hành sai lầm. Giới cấm
thủ (silabbataparamasa)
nghĩa là thực hành sai trái, thực hành theo một đường lối sai lầm và
tin rằng nó sẽ dẫn tới giải thoát.
Khi đã
đột phá qua đạo quả, lúc đó hành giả sẽ hiểu rằng không có pháp hành nào khác có thể dẫn tới giải thoát thực
sự. Chỉ pháp hành nào có
Bát Chánh đạo mới có thể dẫn tới giải thoát, Niết Bàn. Không có pháp hành nào khác có thể đưa tới chỗ đó.
Bất cứ pháp hành nào không theo Bát Chánh
đạo, mặc
dù có
thể mang
lại
một sự tĩnh lặng, an lạc nào đó cho tâm, cũng không bao giờ có thể dẫn
tới giải thoát. Nó có giá trị riêng của nó, cũng như hành thiền an
chỉ định có giá trị riêng của nó, nhưng nó không dẫn tới giác ngộ
giải thoát. Nó có thể là
một giai
đoạn trong
quá trình
thực hành của bạn
nhưng không phải là giai đoạn chung kết; nó không thể dẫn tới đích
cuối cùng, không thể dẫn tới mục tiêu tối hậu. Có rất nhiều đường
lối thực hành khác và nhiều người nói nếu bạn thực hành theo cách đó
cũng dẫn tới Niết Bàn.
Không, con đường duy
nhất tới Niết Bàn
là quán
sát tiến trình thân tâm của chính mình.
Để làm nền tảng cho pháp hành, bạn phải giữ giới trong sạch, cách sinh
sống chính đáng, thanh tịnh. Không có sự thanh tịnh tâm ý như
vậy, tâm sẽ không bao giờ có đủ dũng cảm, động năng và sáng suốt.
Nếu sống với cảm giác lầm lỗi, bạn sẽ không bao giờ được tự do để
quan sát mọi việc một cách rõ ràng và buông bỏ được chúng. Cảm giác
tội lỗi là một ngục tù; nó giam giữ bạn ở bất cứ nơi nào bạn có mặt.
Mỗi khi cảm thấy mình có tội hay có cảm giác hổ thẹn, bạn sẽ không
thể có được sự tiến bộ nào.
Hãy giữ giới trong
sạch, các sinh sống trong sạch, gìn giữ tâm mình trong sáng và thanh tịnh là
điều cần thiết. Không có sự thanh tịnh sẽ không thể có giải thoát
thực sự.
Một số người hành thiền nhưng lại cho rằng giữ ngũ giới không phải là
điều thực sự quan trọng; họ không thực sự cố gắng hết mình để giữ
giới. Nếu bạn không giữ 5 giới mà hành thiền và tin rằng nó sẽ dẫn
đến giải thoát thì đó chính là giới cấm thủ (silabbataparamasa):
đường lối thực hành sai lầm, chấp thủ vào pháp hành sai lầm, tin
tưởng vào pháp hành sai
lầm.
Một
số người
hành thiền, đôi
lúc chứng nghiệm
được một trạng
thái tâm
rất
thanh tịnh và an lạc, và họ lầm tưởng rằng đó là Niết Bàn. Khi đã thực
chứng được Niết Bàn thực sự, họ mới nhận ra cái trước đó
chỉ là
Niết Bàn
giả. Sự
lầm tưởng về Niết Bàn cũng đã được vượt qua. Chỉ đến tầng đạo
quả thứ 3 hành giả mới có thể vượt qua được tham và sân. Tầng đạo
quả thứ nhất chưa tận diệt được lòng tham muốn, mong cầu và sân hận,
chỉ tận diệt được tà kiến và nghi. Một vị Thánh Tu-đà-hoàn (Thánh
Nhập Lưu) vẫn thụ hưởng ngũ dục, song vị ấy có giới đức rất trong
sạch và không bao giờ phạm giới, ngay cả đến ý định phạm giới cũng
không hề có đối với vị ấy. Chẳng hạn, vị Thánh Tu-đà- hoàn vẫn thích
ăn ngon, nhưng vị ấy sẽ không
bao giờ
phạm giới
để có
được
món ăn ngon đó
hoặc bất
cứ cái
gì khác như vậy.
Cách sinh nhai nuôi mạng của vị ấy cũng rất trong sạch. Ngay cả khi
vẫn phải làm ăn kiếm sống, vị ấy cũng không bao giờ lừa dối. Vị ấy
có thể thất vọng, buồn bực
và giận dữ nhưng mỗi khi quan sát trạng thái tâm đó, vị ấy có thể
thấy rõ đó chỉ là một trạng thái tâm mà thôi và sẽ ra khỏi nó rất
nhanh. Vị ấy sẽ không bị mắc kẹt trong
đó.
Đạo quả thứ hai không tận diệt được loại phiền não nào. Nó chỉ làm suy
yếu thêm tham và sân. Thậm chí sau tầng giác ngộ thứ ba hành giả vẫn
còn một số loại phiền não nhất định, vẫn còn bám
víu vào
một đời
sống rất
đặc
biệt,
một cảnh giới sinh tồn thanh tịnh, không hưởng thụ ngũ dục, không sân
hận, nhưng vị ấy vẫn hưởng thụ niềm hạnh phúc an lạc, thanh tịnh.
Cũng vẫn một loại hài lòng, mãn nguyện nào đó rất gần với mạn. Bạn
rất mãn nguyện với những gì mình đã đạt được; đây là một loại ngã
mạn và dính mắc rất vi tế mà chỉ vượt qua được ở tầng đạo quả thứ
tư. Nếu hành giả
là một quan tòa và đã là một
vị Thánh Tu-đà-hoàn thì vị ấy sẽ không bao giờ làm điều gì sai
trái, không bao giờ nhận hối lộ. Vị ấy rất công bằng và chánh
trực.
Tầng đạo quả đầu tiên tận
diệt triền cái (nivarana) nghi (vicikiccha) và
triền
cái tham, sân (kamacchanda,
vyapada) loại rất thô.
Hối quá (kukkucca)
được tận diệt ở tầng thánh thứ ba. Đây là điều rất quan trọng chúng
ta cần phải lưu ý. Trong một số tôn giáo khác, họ nói rằng nếu một
người phạm lỗi và suy nghĩ về lỗi lầm của mình, cảm thấy không vui
về điều đó, khóc than, tự hành hạ mình để sám
hối, họ
cho rằng
làm như
vậy là rất tốt,
hối hận là một việc tốt. Điều đó nghĩa là sao? Nếu đã làm điều gì đó
sai lầm, thì tốt hơn cả là đừng hối hận về việc đó nữa. Hối hận đi
cùng với hiểu biết sâu sắc thì là việc tốt, nghĩa là bạn không tự
khóc lóc, than vãn về việc đó nữa,
mà sẽ
học hỏi
từ nó.
“Đúng
thế,
tôi đã hành động sai lầm và
tôi sẽ không làm như thế nữa. Nếu tô phải chịu hậu quả của việc làm
đó, OK, tôi có đủ can đảm để gánh chịu hậu quả việc làm của chính
mình, nhưng tôi sẽ không than khóc về chuyện đó”.
Thật là vô ích khi nghĩ
ngợi về những điều mình đã làm, rồi thấy khổ tâm mà không thể làm được điều gì cả. Đừng lãng phí
thời gian của mình như thế. Nếu đã lỡ làm điều gì đó sai lầm, hãy học hỏi từ nó và tự sửa
mình, tiếp tục tiến lên và làm những việc tốt, tiếp tục làm công
việc của mình. Bạn thấy đấy, lời dạy của Đức Phật là: hãy tiến lên, học hỏi và trưởng thành.
Bạn có biết nghĩa
gốc của
từ kukkucca
là gì không?
Mặc dù chúng ta
thường dịch ra là hối hận, hối quá, song gốc của nó là do hai từ kud
và kata ghép lại
mà thành. Kud
là xấu, kata
nghĩa là đã làm. Nhưng điều đó không giải nghĩa từ này
một cách chính xác. Nghĩa
chính xác của
kukkucca là
nếu bạn đang hối hận, thì đó là một việc xấu, bản thân nó là một
việc bất thiện. Hãy nhìn sâu vào tâm mình xem, khi hối hận, trạng
thái tâm của bạn như thế nào? Nó có bình an không? Không, nếu nhìn
thật sâu, bạn sẽ thấy càng hối hận là bạn đang càng dính mắc, bám
víu vào nó, càng bám víu
vào bản
ngã hơn.
Nhìn
thấy
được những điều này rất ư thú vị. Ngay cả một vị Thánh Tu-đà-hoàn cũng
chưa thể thực sự vượt qua được hối quá, ngay cả tầng thánh thứ hai
là Tư-đà- hàm cũng chưa vượt qua được nó. Chỉ có tầng thánh thứ ba
là A-na-hàm mới có thể tận diệt được hối quá.
Tâm tàm, quý (hổ thẹn tội
lỗi và ghê sợ tội lỗi) đi cùng với trí tuệ và tri kiến. Bởi vì điều
này nên bạn sẽ không làm việc kia. Nhưng khi bạn đã phạm sai lầm và
thấy hối hận về sai lầm đó thì thế nào? Và khi bạn thấy hổ thẹn thì
lý do tại sao phải hổ thẹn? Bởi vì có người đã phát hiện ra điều đó
chăng? Nếu đó là lý do, thì nó không phải là tâm
tàm quý
– hổ
thẹn tội
lỗi thật
sự
nữa. Việc đó chỉ là để bảo vệ hình ảnh của bạn mà thôi, cái ngã còn to
hơn; nó để bảo vệ cái ngã của bạn.
Tâm tàm quý thực sự đi cùng
với trí tuệ… điều này thật đáng hổ thẹn, tôi sẽ không làm như thế nữa. Nếu đã làm một việc gì đó và nhận ra đó là việc làm đáng hổ
thẹn thì bạn sẽ không làm nữa.
Bạn không nên tiếp tục sống
với sự hổ thẹn và hối hận, để rồi không thể làm được việc gì tốt đẹp
hơn nữa. Bạn phải vượt qua sự hổ thẹn và hối hận để tiếp tục tiến
lên, làm một việc gì đó tốt đẹp hơn, tự thay đổi, tự sửa mình.
Bạn phải hiểu được điều đó với tâm từ bi và sự khoang dung, tha thứ cho
chính mình, bởi vì đối với tất cả mọi người chúng ta, phạm sai lầm
là một điều tự nhiên. Ngay cả Ngài Ananda cũng đã từng làm những
việc thật kinh khủng trong quá khứ, khi đang còn bổ túc các Balamật
của mình. Ngay cả Đức Bồ tát cũng đã từng làm những việc ghê gớm,
Ngài đã tà dâm với một phụ nữ. Ngài Ananda đã từng là một người thợ
vàng, nhiều phụ
nữ xinh
đẹp, giàu có đến chỗ Ngài làm đồ trang sức và Ngài đã tà dâm
với nhiều người trong số họ. Điều đó không có nghĩa là làm như vậy
cũng được, mà là bởi vì tham sân si nên con người ta đã làm những
việc như
vậy. Thậm
chí, từ
ngay
cả những lỗi lầm như thế, bạn vẫn có thể học hỏi, trưởng thành và giải
thoát
được.
Hành giả đã chứng đạo giữ
gìn giới hạnh của mình nguyên vẹn và rất trong sạch mà không cần đến
sự đánh giá, bình phẩm của thiên hạ! Tôi dã từng nghe rất nhiều lời
bình phẩm, người ta đàm tiếu: “Mặc dù ông ta đã đắc đạo, nhưng bởi
vì quá nhiều cám dỗ nên
ông ta đã làm điều ấy, điều nọ”, đó chỉ là lời đánh giá, bình phẩm
của miệng lưỡi thế gian! Năm giới là tối thiểu, đó là điều không cần
phải bàn luận. Ở thời Đức Phật, có rất nhiều tôn giáo ngoại đạo và
một số cho rằng người đã đắc quả
Tu-đà-hoàn vẫn
có thể
bị tái
sanh
vào khổ cảnh bởi vì vẫn còn tham, sân, ngã mạn. Đức Phật nói không. Mặc
dù vẫn còn tham, sân, ngã mạn nhưng tâm vị ấy đã đủ trong sạch để
không đang phải ở trong những kiếp sống thấp hèn như thế nữa.
Cuộc sống là kết quả của
chính nội tâm chúng ta.
Khi tâm trong sạch và cao thượng, nó sẽ không thể ở trong một kiếp sống thấp hèn nữa.
Vị đó có thể cảm nhận được rằng: “Tôi không thể bị tái sanh vào khổ cảnh
nữa”. Đạo quả đầu tiên cũng tận diệt cả thói dối trá, hư ngụy (musavada),
nhưng những lỗi
về khẩu
bất thiện
khác vẫn có
thể xảy
ra. Một
vị Tu-đà-hoàn
vẫn có thể nói về những chuyện vô bổ trên mặt báo, toàn những chuyện tầm
phào vô ích! Các thân hành bất thiện khác (miccha-kammanto)
như sát sanh, trộm cắp, tà dâm thì không! Một bậc Thánh Tu-đà-hoàn
không thể làm những chuyện đó, cả cách sinh nhai bất thiện
(miccha-ajova), như lừa đảo
trong kinh doanh hay những việc
tương tự như vậy cũng không.
Tầng đạo quả thứ hai không
tận diệt thêm phiền não nào, mà chỉ làm suy yếu chúng. Tầng thánh
thứ ba tận diệt tà
tư duy
(miccha-sankappo),
lời nói
vu khống (pisunavaca) và những lời nói thô ác (phasusavaca).
Chỉ đến tầng thánh
thứ tư
mới tận
diệt
được
samphappalapa
- “nói những chuyện
vô bổ trên mặt báo” và
miccha-vayama
(tà tinh tấn), miccha-samadhi
(tà định)
miccha-vimutti (tà
giải thoát) miccha-nana
(tà tuệ).
Hỏi & đáp:
Mặc dù đã
đạt đến tầng đạo quả thứ nhất, nhưng vị ấy vẫn còn một số loại phiền
não, xin hãy hiểu cho như vậy. Nhiều người nói rằng:
“Nghe nói
ông này đã đắc đạo nhưng xem kìa, ông ta vẫn thích đọc báo và thích
ăn ngon” hoặc những điều đại loại như vậy. Vị ấy giữ gìn trọn vẹ
ngũ giới, thế đã là điều quá tốt đẹp.
Hỏi & đáp:
Một số người hỏi Đức Phật
cũng một
câu hỏi
y như
vậy,
nhưng với cách hỏi hơi khác
một chút. Họ hỏi:
“Trong các tôn giáo khác có các vị thánh Alahán hay không?”.
Đức
Phật không nói có hay không, mà Ngài trả lời là:
“Bất cứ người nào thực hành Bát Chánh đạo một cách đầy đủ
đều có thể giác ngộ và trở thành bậc thành Alahán”.
Tiêu chuẩn ở đây là Bát Chánh đạo. Bạn hãy nghiên cứu Bát
Chánh đạo và xem có thể bỏ qua được bất cứ một chi phần nào trong đó
không. Hãy xem điều gì sẽ xảy ra nếu bạn làm điều đó. Điều này rất
tự nhiên.
Hãy suy nghĩ về Bát Chánh
đạo và xem có thể bỏ bớt bất cứ một chi phần nào trong đó được
không, mà vẫn tin rằng không cần thực hành chi phần đó vẫn có thể giác ngộ giải
thoát được.
Hỏi & đáp:
Trong Bát
Chánh đạo, thiền Vipassana được
bao hàm trong Chánh niệm (samma-sati) và Chánh định (samma-samadhi).
Đối với Chánh mạng, Chánh kiến, Chánh tư duy cũng vậy, làm sao một
người tà kiến và tà tư duy lại có thể đắc đạo được? Không có Chánh
mạng, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh định, Chánh niệm, Chánh tinh
tấn, không có giới – định – tuệ, không người nào có thể giải thoát.
Một người, trước khi đắc đạo, phải thực hành đầy đủ, viên mãn Bát
Chánh đạo. Ở đây thời gian thực hành dài hay ngắn không thành vấn
đề.
Hỏi và đáp:
Sự chứng
ngộ diễn tiến theo từng giai đoạn, nhưng nó có thể xảy
ra trong vài
sát-na, vài phút hay
vài giờ từ từng này đến tầng kia. Tôi cũng đọc trong kinh
điển có những người đắc quả Alahán chỉ trong vòng một
thời tọa thiền. Các phẩm chất tâm linh của họ đã được phát
triển đến mức rất cao. Khi đã biết cách hành, họ thực hành và đột
phá qua 4 tầng thánh chỉ trong vòng một thời thiền.
Hỏi & đáp:
Không có khoảng cách
nào ở
giữa cả. Bạn không nghĩ về bất cứ một điều gì hết. Tâm sau tiếp nối
tâm trước
quán sát
liên tục
lặp đi
lặp lại một
cách rất
mạnh mẽ,
rất rõ
ràng,
chỉ
một trong 3 đặc tướng để ngày
càng trở nên sáng suốt hơn và cuối cùng… hoàn toàn buông bỏ! Đó là
những tầng tuệ giác hết sức mạnh mẽ và đầy uy lực. Ngay cả trước đó
bạn đã có thể thấy được cả chuỗi vô thường, khổ, vô ngã, không có
khoảng cách nào giữa chúng, song tuệ giác còn yếu. Nhưng ở những
tầng tuệ giác cuối cùng, sự quán sát trở nên ngày càng mạnh mẽ. Cuối
cùng tâm thực sự sẵn sàng buông bỏ!
Hỏi & đáp:
Chúng ta
có thể thấy được một đặc tướng trong một thời điểm, không thấy được
toàn bộ cả ba đặc tướng cùng một lúc.
Hỏi: Làm thế nào để biết mình thực sự không suy nghĩ?
Đáp:
Khi đã thực sự thấy thì bạn
không còn suy nghĩ. Không có một chút suy nghĩ nào trong đó. Trong
một đêm tối đen như mực, bạn nhìn lên bầu trời và thấy một ánh chớp
chợt lóe lên, bạn thấy và nó liền biến mất. Vào lúc đó bạn không hề
tưởng tượng, mà thực sự thấy và trực nghiệm được nó. Khi điều
đó xảy ra,
nó khác xa
với sự tưởng
tượng.
Ở giai đoạn mới bắt đầu, thỉnh thoảng nó diễn ra trong chốc lát, bởi vì
bạn không thể chánh niệm được một cách liên
tục trong
mọi lúc,
và ngay
cả
khi
hành thiền đều đặn, thường xuyên thì cũng có lúc thấy lúc không, và thấy
ở những mức độ khác nhau. Có lúc thấy rõ ràng, lúc khác lại rất mờ
nhạt, mơ
hồ.
Tâm xả là rất cần thiết,
hoàn toàn quân bình, hoàn toàn xả ly, hoàn toàn cân bằng, rất
trong sáng và buông xả…
chỉ quan sát, không gợn chút suy nghĩ. Khi tâm tiến rất gần tới thời điểm đột phá, không hề còn chút suy nghĩ nào nữa,
mọi việc trở nên rất nhanh.
Hỏi & đáp:
Từ tuệ thứ tư trở đi, tâm
ngày càng vắng lặng và định tĩnh. Chỉ thỉnh
thoảng mới
có một
thoáng
suy
nghĩ ngắn ngủi xen vào, nhưng bạn nhận biết và nó biến mất ngay. Suy
nghĩ không còn lan man như trước nữa. Nó đến rất yếu ớt, bạn thấy
rồi nó biến mất. Ở những tầng tuệ sau, nhất là Tuệ Yếm ly (adinava-nana),
bạn bắt đầu suy nghĩ rất nhiều. “Ôi, sao có qua nhiều sự khiếm
khuyết, bất toàn đến thế! Có gì đâu mà ham mê, có gì đâu mà vui
thú?”. Nếu suy nghĩ quá nhiều bạn sẽ trở nên vô cùng buồn khổ. Không
suy nghĩ là điều rất quan trọng. Khi bạn cảm thấy nhàm chán và thấy
buồn khổ về tiến trình, nếu ngừng hành thiền và suy nghĩ
về nỗi khổ trong
cuộc sống hàng ngày, bạn sẽ cảm thấy
không thể nào chịu đựng nổi. Bạn cảm thấy
thất vọng
về mọi
thứ, nhìn
thấy
tất
cả mọi thứ đều khiếm khuyết, bất toàn. Bạn cảm thấy nhàm chán và không
còn vui thích với tiến trình tâm-vật lý nữa và cảm thấy đau khổ về
thực trạng sống của mình.
Điều này sẽ làm bạn bị stress và khủng hoảng tinh thần.
Khi bạn đến giai đoạn này, điều rất quan trọng là đừng suy
nghĩ nữa.
Suy nghĩ rất nguy hiểm, nó
có thể biến hóa ra rất nhiều thứ. Nó có thể khiến bạn trở nên dễ bị
xúc động. Tuệ giác thực sự thì không dễ xúc động, nó là sự sáng suốt
của trí tuệ và tri kiến. Không có sự thỏa mãn, không có chút gì vui thú trong tiến trình này, điều đó rất rõ ràng.
Nhưng nếu cứ suy nghĩ về những điều này, bạn sẽ trở nên dễ bị xúc động,
buồn khổ và trầm uất. Tất cả mọi thứ đều bị kích động, quấy rối bạn
ngày càng một nhiều hơn; tiếng động và rất nhiều thứ khác đều quấy
rối, chọc giận bạn, làm cho bạn khó chịu, bực mình. Đôi khi bạn nổi
sân lên và khi đó nó trở
thành một trạng thái tâm bất thiện, chứ không còn là tâm thiện nữa.
Tuệ giác là pháp đại thiện, nhưng khi bạn giận dữ, buồn bực, cáu
kỉnh và trầm uất thì tâm
đã trở thành bất thiện. Do đó, điều rất quan trọng là bạn không được
nghĩ ngợi. Tiến trình suy nghĩ,
kết hợp với một mức định tâm nào đó, sẽ làm cho mọi việc trở
nên căng thẳng hơn. Định
sẽ làm
cho mọi
việc trở
nên
rất căng thẳng. Nếu bạn muốn thưởng thức một cái gì đó, hãy làm cho tâm
trở nên tĩnh lặng và định tĩnh, khi đó bạn có thể thưởng thức được
nhiều hơn.
Khi đọc sách với tâm xáo
động, bất an, tôi không thể thưởng thức được cuốn sách đó. Nếu thực
sự muốn thưởng thức một cuốn sách, một câu chuyện, một vần thơ hay
một lời hay ý đẹp, tôi cần phải làm cho tâm mình trở nên thật tĩnh
lặng và bình an đã. Khi đó, mỗi từ đều chứa đầy ý nghĩa, và tôi có
thể thực sự thưởng thức
được những điều mình đang đọc. Ngay cả đối với cảnh vật cũng thế,
khi tâm tĩnh lặng, tôi ngắm bình minh đang rạng hay cảnh chiều
tàn, hoàng
hôn đang
buông,
tôi
có thể để hoàn toàn tâm trí vào đó và nó trở nên thật tuyệt vời, thế
giới thật là đẹp biết bao.
Khi tâm bất an, trạo cử, bạn không thể thưởng thức được những điều đó. Cũng vậy, khi tâm định tĩnh, tập trung và bạn suy
nghĩ một điều gì hãi hùng, quá tán loạn thì bạn không sợ được nữa,
không tức giận, không gì hết cả, bạn đã quá rối trí. Một cái tâm rối
bời, tháo động sẽ không thể nhận biết điều gì một cách sâu sắc được.
Lúc đó có rất nhiều tâm si. Uddhacca – trạo cử rất
gần
với tâm si. Trạo
cử nghĩa
là một cái tâm tán loạn, phân tán và bất an.
Mỗi khi tâm trở nên vắng
lặng và định tĩnh,
đừng tưởng
tượng điều
gì cả,
bởi
vì lúc đó sư tưởng tượng sẽ trở nên rất thực, dù tưởng tượng tốt hay
xấu.
Điều quan
trọng nhất là khi có suy nghĩ đến thì hãy chú ý sâu sát vào suy nghĩ đó.
Nếu bạn chú tâm vào nó, nó sẽ biến mất. Mỗi khi nó đến, chỉ cần chú ý
thật kỹ.
Chỉ cần chú ý vào suy nghĩ
sẽ làm nó biến mất, rồi sau đó mới đưa tâm trở lại đề mục thiền của
mình.
Vì vậy, đừng khuyến khích sự suy nghĩ. Đôi khi người ta thường thích
nghĩ ngợi.
Nếu bạn
phát hiện
ra
mình
đang ham thích nghĩ ngợi như vậy thì hãy quan sát ngay sự ham thích đó,
quan sát ý muốn nghĩ ngợi đó của mình. Suy nghĩ tạo ra cái “Tôi là”.
Khi bạn ngừng suy nghĩ, đôi lúc bạn trở
nên rất không thực, bạn cảm thấy mất mát một cái gì đó, không
có cái gì để bấu víu nữa. Theo một cách nào đó, suy nghĩ là sự bám
víu, chấp thủ, thậm chí ngay cả khi tức giận một ai đó, bạn vẫn cứ
nghĩ hoài đến người đó. Điều
đó có nghĩa là bạn đã bị dính mắc vào chính ý tưởng đó, bạn
bị dính mắc vào những điều xảy ra và không thể buông bỏ được
---o0o---
Mục Lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05
06 |
07 |
08 |
09 |10
|11
BACK
|