|
Bản Đồ
Hành Trình
Tâm Linh
Thiền Sư
Sayadaw U Jotika
Tỳ Kheo Tâm Pháp
dịch
Chương
10:
Niết Bàn
và sau
đó
Phần
1:
Niết Bàn
và sau
đó
Khi chứng nghiệm Niết Bàn,
không hề có một suy nghĩ nào… ngay cả
suy nghĩ về Niết Bàn cũng không. Thực chất Niết Bàn là gì?
Hầu hết trong kinh điển đều lấy hình tượng ẩn dụ là ngọn lửa tắt.
Một ngọn lửa đang cháy và… phụt tắt, còn lại gì? Không phải là hư
không, trống
rỗng!!
Khi làm bất cứ việc gì, tôi thích phải chuẩn bị trước. Sự chuẩn bị là
rất quan trọng. Trong bất cứ việc gì chúng ta làm; chuẩn bị trước là
điều rất quan trọng,
chuẩn bị
cho cả
thân lẫn
tâm.
Bất cứ việc gì bạn muốn làm, nếu được chuẩn bị trước về tâm lý, thì
những phần còn lại sẽ diễn ra rất tự nhiên. Nếu chúng ta đã chuẩn bị
kỹ thì sẽ không phải vật lộn nhiều nữa. Tôi đã mong đợi kỳ nhập thất
này và hy vọng là sẽ thưởng thức được nó. Tôi hy vọng các bạn sẽ
kinh nghiệm được sự tĩnh lặng, bình an, sự
sáng suốt và niềm
vui. Sáng suốt cũng có nghĩa là thấy mọi việc một cách rõ
ràng. Tôi sẽ tiếp tục lại bài giảng tuần trước về các tầng tuệ
giác.
Chúng ta hãy quay trở lại với một số tầng tuệ trước đó. Bạn thấy rằng
trong quá trình thiền tập, bạn sẽ tới một thời điểm
mà tại đó sự
sanh diệt
trở nên
vô
cùng mỏi mệt, bạn không còn
muốn ở lại với chúng thêm chút nào nữa. Bạn muốn lánh xa nó, chạy
trốn và thoát ra khỏi
nó. Giai
đoạn này
gọi là Muncitukamyata – nana (Tuệ Muốn Giải Thoát). Đôi lúc bạn nghĩ:“Nếu tôi ngừng
hành thiền, nếu tôi không thấy những thứ sanh diệt này nữa thì tôi
sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn”. Khi làm như vậy, bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn, bởi vì định, xả và tâm xả
ly đã rất mạnh, đến mức mặc dù ngừng hành thiền, song bạn vẫn cảm
thấy an lạc hơn, bạn có thể kinh nghiệm được sự an lạc
này: “Ồ, quả
thật là
an lạc quá”, và
bạn thưởng thức sự an lạc đó. Nhưng làm như vận không đúng. Đúng là thiền thì
rất thích
thú, nhưng
nếu
chỉ
thưởng
thức thì
bạn sẽ đánh mất nó. Nó giống như
một trò đuổi bắt, bạn nhận
ra rằng ngừng hành thiền không phải là lối
thoát thực sự,
bởi vì bạn vẫn ở
trong tiến
trình sanh và diệt. Sau một thời gian, thậm chí bạn còn đánh mất sự
sáng suốt và cảm thấy tâm mình lại trở nên khổ sở và trạo cử, bất
an. Bạn hiểu ra:
“Tôi
không muốn cảm thấy sự trạo cử, bất an này thêm chút nào nữa”,
bởi vì tâm trạo cử rất khổ não, tâm trí xao lãng, tán loạn là một
nỗi thống khổ. Sự tĩnh lặng, yên tĩnh và bình an là điều
tốt đẹp hơn nhiều. Do đó, bạn quay trở lại với thiền. Bạn chú
tâm vào bất cứ cảm giác nào trên thân, bất cứ loại cảm thọ nào, bất
cứ ý nghĩ hay cảm xúc
nào. Nhưng
ở đây
hầu hết
chỉ có
những
cảm xúc rất vi tế; mong muốn được giải thoát cũng giống như một loại cảm
xúc. Bạn cảm thấy mình bị mắc kẹt trong tiến trình, vì vậy bạn muốn
thoát ra khỏi nó, “Hãy đưa tôi ra khỏi đây”.
Điều này cũng giống một loại cảm xúc. Đôi khi nó có thể tạo nên một sự
bất an nho nhỏ nào đó, nhưng bạn hiểu rằng cách duy nhất để thoát
khỏi nó là quán sát nó kỹ lưỡng và sâu sát hơn nữa.
Con người thường tìm kiếm lối thoát ra khỏi những hoàn cảnh khó khăn
trong cuộc sống. Khi gặp khó khăn hay sự bực bội nào đó, chúng ta cố
gắng tìm cách thoát ra khỏi chúng. Nhiều người cố
gắng thoát
ra bằng
những
phương
pháp thật kinh khủng. Muốn thoát khỏi thì được thôi, nhưng thế nào mới
là hành động đúng để thoát ra khỏi nó?
Điều đúng đắn phải làm là
quán sát tiến trình một cách sâu sát hơn nữa, hiểu biết nó một cách
kỹ lưỡng hơn. Bất kể việc gì, ngay cả đó là những hoàn cảnh rất đau
khổ trong cuộc đời bạn, nếu muốn thoát khỏi hay vượt qua nó, cách
tốt nhất là chú ý nhiều hơn nữa, nghiên cứu, xem xét nõ kỹ càng hơn
nữa, hiểu biết mọi ngọn ngành chi tiết của nó, một cách đầy đủ.
Hiểu biết đầy đủ là cách duy nhất để vượt qua.
Không có con đường
nào tốt hơn, bất kể trong hoàn cảnh nào,
dù trong
thiền hay
trong
cuộc
sống thế gian. Đây chính là thái độ đúng đắn.
Khi đạt đến điểm này trong thiền, bạn hiểu rằng cách duy nhất để vượt
qua bất kỳ hoàn cảnh đau khổ nào là chú ý đến nó nhiều hơn nữa, thấu
hiểu nó một cách sâu sắc
hơn, kỹ lưỡng hơn và hiểu hoàn toàn đầy đủ về nó. Rồi sau đó, ngay
cả trong cuộc sống của bạn cũng vậy, khi đối diện với một hoàn cảnh
khó khăn, đừng cố gắng chạy trốn nó, đừng quay lưng lại với nó; đừng
nhắm mắt làm ngơ. Bạn hãy cố gắng nhìn
nó một
cách sâu
sát hơn
nữa:
“Bây giờ
đang có điều gì diễn ra? Tôi muốn thấu hiểu nó một cách sâu sắc
hơn”.
Tuệ giác
bạn đạt được trong thiền có thể được áp dụng trong cuộc sống hàng
ngày, trong những vấn đề của thế gian. Bạn rèn luyện một thái độ
chân chánh để sống cả cuộc đời, chứ không chỉ ở trong thiền. Cho cả
cuộc đời của bạn, đây chính là thái độ
đúng đắn.
Khi tăng cường chú ý một
cách “tự nguyện” như vậy, điều này rất quan trọng, bởi vì bạn tự
nguyện nhìn lại nó, bởi vì bạn chú tâm một cách thật sâu sát nên
không có tham muốn sanh khởi nữa, không còn trạo cử bất an nữa. Thậm
chí bạn cũng không muốn giải thoát khỏi nói
nữa, bởi
vì bạn
đã chú
ý
một cách sâu sắc. Hãy thấy thật rõ
điểm này. Bạn chú tâm một cách hoàn toàn đến mức không còn
tham muốn nào khởi lên nữa. Sự chú tâm hoàn
toàn như vậy khiến tâm rất quân bình, không còn xao lãng,
phân tán. Trước đó, khi hành thiền bạn muốn chạy thoát khỏi nó:
“Tôi không muốn làm việc
này chút nào, tôi không muốn thấy nó nữa; tôi phải làm gì bây giờ
đây? Tôi sẽ ngừng hành thiền chăng?”.
Bạn không thực sự hoàn
toàn chú tâm. Nhưng khi đạt đến trạng thái quân bình này,
bạn chú tâm
hoàn toàn,
“Dù bất
cứ chuyện gì xảy ra, ngay cả nếu phải chết trong lúc này thì
cũng OK”. Bạn không còn muốn làm bất cứ điều gì nữa, bạn chỉ
muốn chú tâm
một cách
hoàn
toàn
đầy đủ, khi đó thiền lực
của bạn đã thực sự chín muồi. Đỉnh cao của thiền chính là đây:
“Tôi không muốn thêm bất cứ điều gì nữa, dù bất cứ điều gì
xảy đến, ngay cả nếu phải chết trong tiến trình này, tôi vẫn sẵn
sàng quán sát nó, tiếp tục nhìn nó… nhìn nữa…”.
Loại chú ý toàn tâm toàn ý
đó làm cho tâm thực sự ổn định và lắng đọng trở lại. Trong mọi hoàn
cảnh ngang trái của cuộc đời, khi bạn đã quyết định rằng: “Hoàn cảnh
nào bây giờ thật khó khăn và đau khổ, nhưng tôi sẽ thực sự chú ý
toàn tâm toàn ý, thực sự nhìn nó”. Vào khoảnh khắc quyết định như
vậy, bạn sẽ thấy tâm mình tĩnh lặng trở lại, không còn
trạo cử,
bất an
nữa.
Quyết định đó rất quan trọng. Khi bạn chú tâm hoàn toàn, một cách tự
nguyện, tâm sẽ trở nên tĩnh lặng và quân bình, không thái quá, không
dính mắc. Trước kia, mỗi khi tâm tĩnh lặng, bạn cảm thấy rất hạnh
phúc, rất nhiều hỷ lạc đến mức đôi lúc tâm bạn xáo động và dính mắc
vào trạng thái hỷ lạc đó. Nhưng giờ đây, mặc dù tận hưởng sự an lạc
còn lớn hơn nhưng bạn không bị
dính mắc
vào nó.
Sự quân bình
và xả của bạn rất mạnh.
Nó rất an lạc, nhưng
không có dính mắc vào sự an lạc đó, và cũng không còn mong muốn
thoát ra khỏi nó
nữa.
Điều này có vẻ như rất nghịch lý, nhưng khi bạn sẵn lòng quan sát nó,
mọi thứ sẽ trở về cân bằng. Khi bạn chú ý hơn nữa, mọi thứ sẽ trở
nên ngày càng rõ ràng, tâm sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn, chánh niệm ngày
càng vững mạnh và sự nhận biết trở nên rất sắc bén đến mức với mỗi
nhận biết, không hề có bất cứ một suy nghĩ nào xen vào, bạn thấy rõ
bản chất của nó, hoặc là vô thường, khổ hoặc là thấy nó không
phải là chúng sanh nào, không bản ngã, không có tự ngã, không
có cốt lõi trường tồn, không thể làm chủ. Bạn có thể thấy bất kỳ đặc
tướng nào trong số những đặc tướng này, rất rõ ràng với mỗi nhận
biết mà không hề suy nghĩ. Điều đáng kinh
ngạc là
trong
một
khoảnh khắc rất ngắn ngủi – mỗi sự nhận biết đều rất ngắn – khi nhận
biết rất sắc bén… trong khoảnh khắc đó… trí tuệ và sự sáng suốt trở
nên rất rõ ràng, mà không hề có chút suy nghĩ
nào.
Trong cả cuộc đời chúng ta, khi hiểu biết việc gì, chúng ta hiểu nó
thông qua một tiến trình suy nghĩ. Chúng ta suy nghĩ về nó và hiểu
nó, nhưng ở trong khoảnh khắc này, dù không hề có một thoáng suy nghĩ,
nhưng mọi
sự hay biết đều mang lại
rất nhiều trí tuệ, rất nhiều sáng suốt. Điều này xảy ra vì không có
suy nghĩ, bởi vì khi suy nghĩ, tâm bạn bị chia xẻ.
Chỉ khi
ngừng suy nghĩ thì tâm bạn mới
trọn vẹn, mới hoàn toàn.
Khi bạn ngừng suy
nghĩ và chú tâm nhiều hơn, mọi nhận biết sẽ trở nên rất rõ ràng.
Và ở 3 sát na cuối cùng, rất sắc bén với sự sáng suốt đầy uy
lực, sau đó tâm buông bỏ!
Tâm đã sẵn sàng
bỏ.
Vào khoảnh khắc đó bạn không còn thấy hay kinh nghiệm được bất cứ tiến
trình thân tâm nào nữa. Tâm bạn rơi vào… sự đoạn diệt... Trong sát
na đó, mọi thứ đi đến chấm dứt, và một sự an lạc và tĩnh lặng vô
cùng sâu sắc… trong một khoảnh khắc rất ngắn ngủi. Khi bạn ra khỏi
đó… một vài khoảnh khắc
an lạc
và tĩnh
lặng vẫn
còn
tiếp
tục, có thể 3 hoặc 4 sát na tâm. Sau đó suy nghĩ lại khởi lên và chúng
ta lại nghĩ về nó… có điều gì đó vừa xảy ra, rất luy lực, nhưng cũng
rất tĩnh lặng và an lạc.
Từ kinh nghiệm
đó, bạn thấu hiểu được bản chất của nó một cách rõ ràng. Đây
chính là niềm an lạc, là hạnh phúc đích thực, sự vắng lặng và giải
thoát đích thực. Rồi sau đó bạn quán sát lại bản thân mình, có một
điều gì đó đã đổi thay! Cho dù bạn chưa từng đọc một cuốn sách nào,
hay không có một chút kiến thức nào về nó đi nữa, nhưng khi quán xét
lại bản thân mình, bạn vẫn biết rằng có một điều gì đó đã thay đổi.
Nó làm thay đổi
tính cách
của
bạn,
thay đổi cách nhìn của bạn. Bạn biết không có cái gì là trường tồn cả,
không có bản ngã, không có cái tôi. Giới đức của bạn đã trở thành tự
nhiên, việc giữ gìn ngũ giới trở nên tự nhiên đối với bạn. Bạn không
còn phải cố gắng để thu thúc, kiềm chế không phạm giới nữa, và bạn
biết rằng mình sẽ không bao giờ phạm giới nữa; nó trở nên hết sức
tự nhiên.
Bạn biết
rằng mình
không còn nghi ngờ gì về vô ngã, về những kiếp sống tương lai
hay về Phật, Pháp, Tăng nữa. Thông thường, ngay cả đối với những
người không có kiến thức, họ cũng tự động cảm thấy một sự biết ơn
rất sâu sắc, một lòng tri ân sâu sắc và mạnh mẽ đối với Đức Phật và
Giáo Pháp, đối
với chư
Tăng đã
có công
gìn
giữ Giáo Pháp. Một cảm giác
biết ơn vô cùng lớn tràn ngập trong tâm hành giả. Có người nói với
tôi rằng, anh cảm thấy biết ơn vô hạn đến nỗi đã khóc lên với những
giọt nước mắt sung
sướng…
“Giáo pháp này quả thật là giáo pháp chân chánh và đích
thực! Đây chính
là sự
giải thoát
đích thực!”. Rất nhiều ý nghĩ có thể đến, trên đây chỉ là một trong số
những ý nghĩ chính.
Khi đạt đến giai đoạn này, bạn đã tận diệt được tà kiến (miccha-ditthi)
chấp vào một cái tôi, một bản ngã trường tồn. Không có cái gì là bản
ngã trường tồn
cả. Tất
cả mọi thứ đều
ở trong
dòng biến dịch. Và
hoài nghi
(vicikiccha)
tôi
có còn phải tái sanh không hoặc nghi ngờ điều ấy điều nọ, tất cả mọi
hoài nghi đều tan biến, không còn tin rằng có một đường lối thực
hành nào khác ngoài Bát Chánh đạo, không còn tin rằng hành thiền an
chỉ định (samatha) có thể dẫn đến giải thoát. Một số người
khi hành thiền an chỉ định và thể nhập được vào một cảnh giới nào
đó, họ cho đó
là giải thoát, tin rằng đó là
Niết
Bàn.
Tuy nhiên khi đã thân chứng
điều này bằng thiền
Vipassana, bạn sẽ hiểu
rằng không có con đường nào khác đưa tới giải thoát. Con đường duy
nhất để giải thoát là quán sát những
tiến trình
thân tâm
này
một
cách cặn kẽ, đầy đủ. Ngoài
ra không có con đường nào khác để giải thoát.
Để có thể quán sát được
tiến trình thân tâm này, bạn phải làm thanh tịnh bản thân mình, giữ
gìn giới hạnh trong sạch. Bạn cần phải định tâm vào một vài đề mục
nào đó, có thể là thân hoặc tâm, hay bất cứ một đề mục nào như một
nền tảng căn bản, như hơi thở chẳng hạn. Bình ổn tâm và làm cho nó
trở nên trong sáng và thuần khiết:
thanh tịnh tâm, thanh tịnh ý (tâm tịnh). Chỉ nhờ quán sát
tiến trình thân tâm này, bạn mới ngày càng thanh tịnh hóa bản thân
mình: kiến tịnh, đạo phi đạo tri kiến tịnh (phân biệt đâu là chánh
đạp đâu
là tà
đạo). Chỉ
bằng thanh
tịnh
hóa bạn
mới có thể giải thoát, không có con
đường nào khác. Nếu chúng ta muốn giải thoát, chúng ta phải thanh
tịnh hóa bản thân, bạn sẽ hiểu rằng đây là con đường duy nhất dẫn
đến giải
thoát.
Ghen ghét, tỵ hiềm (issa)
và biển lận (maccharia
– bủn xỉn, keo kiệt) cũng đã bị vượt qua. Nghĩa là bạn sẵn lòng
chia sẻ bất cứ cái gì mình có với người khác và không ghen tỵ với
người. Nếu bạn dư thừa cái gì và có người cần, bạn sẽ sẵn lòng và
vui vẻ bố thí. Nhưng điều đó không có nghĩa là bạn cho đi tất cả mọi
thứ mình có. Nếu có người thực sự đang cần, bạn sẽ sẵn lòng bố thí,
chia sẻ
cho họ.
Khi người
khác
thành đạt và hạnh phúc, bạn
không ghen tỵ với họ. Tôi không biết chính
xác
ý
nghĩa
của từ
jealous và envy trong
tiếng Anh, nhưng ở
đây thì nó có nghĩa là như vậy. Khi người khác thành đạt mà bạn không được như vậy, bạn cảm
thấy ra sao? Bạn thấy không vui:
“Ôi dào, nếu tôi ở địa vị ấy thì tôi sẽ là người đạt được
điều đó
chứ không
phải là
hắn”, bạn sẽ
nghĩ như vậy. Nhưng khi đã đắc đạo, bạn sẽ không bao giờ còn nghĩ
như vậy nữa.
Bạn sẽ thực sự nghĩ rằng người đó thật may mắn, người đó đang được hưởng
tất cả những điều
tốt đẹp
ấy, bạn
cảm
thấy rất
vui cho
người ấy.
Tâm hỷ
này (mudita) trở nên rất tự nhiên.
Trước khi đắc đạo, hầu hết
mọi người chúng ta, không ít thì nhiều, đều cảm thấy không vui khi
thấy người khác thành công hơn mình. Một cái tâm thật xấu xa! Và
chúng ta được gì từ việc đó? Chúng ta không thể yêu mến được người
đó, chúng ta không thể khâm phục người đó. Tại sao con người lại cảm
thấy cô đơn thế nhỉ? Bởi vì thói ghen tỵ, tham lam nên chúng ta mới
cảm thấy cô đơn đến vậy. Trên thế giới này có quá nhiều thù hận và
hiểm nguy. Tại sao thế?
Bởi vì có kẻ có
được những
thứ mà tôi không có. Tôi muốn
có và
tôi sẽ
chiếm bằng
được
nó,
ngay cả phải dùng những phương cách bất hợp pháp. Nhiều người tinh ranh,
gian trá đến mức họ có thể bóp méo toàn bộ sự việc và đánh bóng tô
son, làm cho nó trở nên thật đẹp đẽ. Đó bạn có
thấy không, cái tâm mình nó
lừa đảo và ma giáo
như vậy đó.
Khi bạn thấy thật rõ ràng, bạn sẽ không thể làm điều đó được nữa, không
còn chút lừa đảo, ma giáo nào nữa. Bạn trở nên rất trung thực; bạn
có thể thấy được mọi việc một cách rất rõ ràng. Bạn vẫn có thể khao
khát, ham muốn cái gì đó, bởi vì tầng đạo quả thứ nhất không tận
diệt được tất cả ham muốn và khát vọng. Tham vẫn còn đó, nhưng không
còn đủ
mạnh để
khiến bạn
phạm
giới nữa. Bạn sẽ không sát sanh hay trộm cắp để lấy được cái gì đó cho
mình, bạn sẽ không nói dối, tà dâm hay uống rượu và dùng các chất
say nữa. Không còn ham muốn
làm tất
cả những việc ấy
nữa.
Bạn không cần phải tự kiềm
chế mình; chỉ đơn giản vì bạn không còn muốn làm điều đó nữa. Nó trở
nên thật tự nhiên và dễ dàng đến mức
bạn không cần phải cố gắng để tự kiểm soát mình.
Trước khi đắc đạo, chúng ta
biết rằng phạm giới là điều không tốt và chúng
ta phải cố gắng thật nhiều để giữ giới. Đôi
khi, sự
cám dỗ
quá mạnh,
chúng
ta
phải
vật lộn với nó. Thật
là mệt mỏi, có lúc chúng ta cũng phải đầu hàng nó, rồi lại
hối hận và xin giới lại. Một người bạn của tôi nói: “Tại sao bạn
cứ phải xin giới lại mỗi ngày như thế? Ngày nào
bạn cũng
phạm giới
hay sao?”.
Sau tầng giác
ngộ thứ nhất, điều
đó sẽ
trở thành
tự nhiên,
bạn không còn ý
muốn phạm giới nữa. Bạn có cảm thấy mình được giải thoát đến thế nào
không? Mặc dù vẫn còn ham muốn hưởng thụ ngũ dục, nhưng bởi vì ghen
tỵ, đố kỵ hay tham lam không còn nữa, nên bạn rất tự do và giải
thoát. Và ngay cả khi bạn hưởng thụ những thú vui đó, nó
cũng không
còn như
xưa nữa.
Trước kia bạn nghĩ rằng đây là hạnh phúc đích
thực, vui
thú đích
thực, sự
sung
sướng đích thực, nhưng bây giời, ngay cả khi tự buông thả mình thụ hưởng
dục lạc, bạn vẫn biết rằng đấy không phải là những điều thực sự có
thật. Bạn không
bị mắc kẹt
trong đó. Ngay
cả khi hưởng thụ,
bạn vẫn có phần nào tự do tự tại để hưởng thụ nó. Và khi có điều gì
không may xảy đến, bạn hành thiền và có thể thấy đây lại là một
trạng thái tâm khác, bạn lại trở nên tự do, giải thoát một cách rất
dễ dàng.
Trước khi hành thiền, chúng ta cứ nghĩ rằng mọi thứ
trên đời
này đều
bền vững và
trường tồn, rằng chúng
thật đáng
vui thích và có thể mang lại hạnh phúc cho mình. Chúng ta
thực sự tin vào sự thường
còn, bền
vững: một
con
người
trường tồn, một bản ngã trường tồn. Nhưng sau đó thì tà kiến chấp ngã (miccha-ditthi)
này đã không còn nữa. Nhưng
miccha-sanna
(tưởng điên đảo) và
miccha-citta
(tâm
điên đảo) vẫn còn dư sót. Đôi khi đối tượng hiện ra có vẻ như là thường
còn, bền vững
nhưng khi nhìn
thật ký thì chúng ta thấy nó không phải là như vậy. Giống như bạn
đang sống trên đường ranh giới, khi bạn sẵn lòng, bạn có thể thấy
nó…
Khi cảm thấy hạnh phúc, khi
hưởng thụ thú vui dục lạc, kinh nghiệm dường như vẫn cũ nhưng khi
thực sự nhìn vào nó, bạn sẽ biết: “Không, cái này
sẽ không
bao giờ
mang lại
hạnh
phúc thực sự cho mình. Trong đó không hề có hạnh phúc”.
Mặc dù đôi lúc bạn vẫn
hưởng thụ, nhưng bạn cũng có thể buông bỏ nó một cách dễ dàng bởi vì bạn biết rằng ở đó không có hạnh phúc đích thực và bền vững.
Một người bạn của tôi nói:
sau khi đắc đạo người ta mới
có thể thực sự thưởng thức được mọi vui thú; điều đó thật
tuyệt vời bởi vì bạn không còn bị mắc kẹt trong đó nữa. Quả thực rất
khó nói về điều đó, nhưng đây đúng là cách nó được cảm nhận như vậy.
Đó là lý
do tại sao chúng ta thấy
nhiều người vẫn hưởng thụ vui thú ngay cả khi họ đã đắc đạo. Họ không còn bị mắc kẹt trong đó nữa.
Với vô thường, khổ và vô ngã cũng vậy. Không còn ngã kiến nữa (atta-
ditthi), nhưng người đó vẫn ứng xử
như một con người bình thường. Họ vẫn nói “tôi”, “bạn”. Họ sử
dụng cùng một thứ ngôn ngữ như cũng nhưng
luôn luôn biết rằng không có cái gì là bản ngã thực sự và
thường hằng cả. Đây chính là điều khác biệt
của họ thấy sự khác biệt này rất sâu sắc. Nhưng điều này sẽ
tận diệt ở tầng đạo quả thứ
tư.
Bạn trở
nên rất tự tại và giải thoát; có lúc bạn khóc,
lúc khác bạn cười, nhưng bạn không bị mắc kẹt trong
nó. Bạn
có thể
vượt qua
nó hết
sức dễ dàng.
Ngay cả lúc khóc, bạn cũng cảm thấy rất thoải mái.
Phải chăng lại có
thể được như vậy hay sao?
Dù sao, khi đạt đến chỗ đó bạn sẽ hiểu được nó như thế nào. Rất khó để
diễn tả những điều này bằng ngôn từ. Như vậy, bạn đã tận diệt được
tà kiến (ditthi), nghi (vicikiccha), giới cấm thủ (silabbataparamasa),
tật đố (issa-ghen tỵ, đố kỵ) và biển lận (macchariya-bủn
xỉn, keo kiết).
Bạn không
còn muốn lấy bất cứ thứ gì từ người khác
một cách bất hợp pháp nữa. Nếu có dư, bạn cũng sẵn lòng chia
sẻ cho người khác. Rất hào phóng, nhưng không hoang phí.
Bạn sẽ không đi mà ném tiền
qua cửa sổ, vứt bỏ mọi thứ mình cần ra đường. Nếu biết có người nào
đó đang thực sự cần, bạn sẽ đem cho họ. Sự quán xét này sẽ còn tiếp
tục lại nhiều lần, trong cả một thời gian dài; quán xét về giới hạnh
của mình: “Tôi không
thể phạm một giới
nào được
nữa, tôi
không muốn phạm”. Và quán xét về những loại phiền não bạn đã tận diệt. Bạn sẽ
thấy không còn tà kiến, nghi, giới cấm thủ, đố
kỵ và bủn xỉn
nữa, và
bạn cũng
thấy
được những loại phiền não vẫn còn dư sót trong người. Bạn sẽ thấy vẫn
còn ham muốn thụ hưởng dục lạc, bạn vẫn còn
bị buồn
bực, thất
vọng. Nhưng
mặc dù vẫn còn ham muốn, song bạn sẽ không
phạm bất
cứ giới
nào nữa.
Mặc dù có thể nổi giận, nhưng bạn sẽ không đi giết người hoặc
sát sanh. Tham muốn và sân hận trong bạn không còn đủ mạnh để hãm
hại bất cứ chúng sanh nào hay làm hại chính bản thân mình. Càng suy
tưởng đến Phật, Pháp, Tăng bạn càng cảm nhận được lòng tri ân, biết
ơn vô hạn. Rất khó để diễn tả được trạng thái tình cảm này. Đôi khi
có người chỉ quán xét một khía cạnh nào đó, không nhất thiết phải
quán xét
tất cả
mọi phương
diện.
Có
người chỉ quán xét một kinh nghiệm nào đó, chẳng hạn như khoảnh khắc tâm
được giải thoát, hay về bản chất của sự giải thoát… nó thật là tự
do, tự tại, thật là giải thoát… không còn sanh diệt nữa, chỉ có một
sự yên lặng, một sự vắng lặng hoàn toàn. Đây chính là sự hồi tưởng
về Niết Bàn: khoảnh khắc hành giả chứng nghiệm Niết Bàn. Niết Bàn là
gì? Làm thế nào để diễn tả về Niết Bàn? Nơi đó không có sanh diệt,
không có tiến trình tâm lý, không có tiến trình vật lý, bạn không
còn kinh nghiệm bất cứ một tiến trình tâm nào, không còn kinh nghiệm
bất cứ tiến trình thân nào nữa. Thậm chí bạn cũng không suy nghĩ
rằng: “Ồ… điều này thật là an
lạc biết
bao”…bởi vì
trong
khoảnh khắc đó, bạn không thể suy nghĩ được bất cứ điều gì… Tâm trở
nên vô cùng tĩnh lặng, an lạc và chứng nghiệm sự an lạc đó mà
không hề suy nghĩ về nó… Chỉ sau đó bạn mới nghĩ lại về nó.
Vậy thực chất Niết Bàn là gì? Nó có phải là trạng thái không tồn tại
không? Không, không phải như vậy! Nó không phải là hư không, trống
rỗng. Bởi vì nếu nó là
không có gì thì bất cứ ai cũng có thể chứng nghiệm được vào bất cứ
lúc nào, chỉ cần nghĩ về hư không là được… và cảm thấy rất tự do.
Không, bạn không thể làm như thế được, bởi vì khi nghĩ về hư không
thì là có suy nghĩ
rồi. Khi chứng
nghiệm Niết Bàn, không hề có một suy nghĩ nào… ngay cả suy nghĩ về
Niết Bàn cũng không. Thực chất Niết Bàn là gì?
Hầu hết trong kinh điển đều lấy hình tượng ẩn dụ là ngọn lửa
tắt. Một ngọn lửa đang cháy và… phụt tắt, còn lại gì? Không phải là
hư không, trống rỗng!!
Hoặc tôi tạo ra âm thanh…
bạn chú tâm vào âm thanh đó… bây giờ âm thanh đó không còn nữa, thì
có cái gì ở đó? Chỉ là sự vắng lặng… sự tĩnh lặng đó có thực hay
không? Làm thế nào bạn hiểu được điều đó? Bạn có cảm thấy sự yên
lặng không? Có chứ, đúng không.
Nó cũng
tương tự
như sự
vắng
lặng hay ngọn lửa tắt. Không còn cháy nữa. Để hiểu được sự vắng lặng hay
bản chất của ngọn lửa tắt, đầu tiên bạn phải chú ý đến những điều
đang diễn ra trước đó. Để thấu hiểu sự yên lặng trước hết bạn phải
chú ý vào âm thanh… đó là tiến trình. Để hiểu được điều gì diễn ra
sau khi ngọn lửa tắt, trước hết bạn phải chú ý vào ngọn lửa. Có một
tiến trình dẫn đến cảnh giới đó; nó không phải là một ý tưởng về hư
không. Nó chính là bản chất của tiến trình đi đến chấm dứt… sự chấm
dứt của tiến trình chính là chân hạnh phúc, là
an lạc đích thực bởi vì bất cứ
khi nào có cái gì
đang diễn ra, sanh và diệt, thì không có vắng lặng, không có an lạc.
Một khi đã chứng nghiệm được điều đó, thì mặc dù có những lúc bạn không
chứng nghiệm lại được, bạn có thể bị lôi theo những công việc của
đời thường hay chạy theo những đam mê, phấn khích, nhưng mỗi khi chú
ý, bạn sẽ biết rằng điều này không phải là
thật, không phải là chân hạnh phúc. Bạn luôn có thể quay trở
lại với trạng thái vắng lặng và an lạc đó.
Sau khi đã chứng nghiệm
được cảnh giới này, lúc
hành thiền trở lại, bạn hãy quyết định trong tâm rằng: “Tôi sẽ hành
thiền và quay lại với sự vắng lặng và trạng thái an lạc đó – nơi toàn bộ tiến trình đều chấm dứt”.
Bạn có thể quyết định thời gian – 5 phút, 10 phút – an trú trong trạng
thái đó. Bạn hành thiền với quyết định
trong tâm: “Tôi
sẽ chứng nghiệm lại trạng thái vắng lặng, an lạc ấy trong 5 phút”,
rồi sau đó quên nó đi. Khi hành thiền, bạn đừng nghĩ về bất cứ một
điều gì nữa. Chỉ chú tâm tới bất cứ những gì đang diễn ra
trên thân tâm mình, làm bất cứ công việc nào bạn
vẫn quen khi hành thiền. Đề mục nào không quan trọng, bất
cứ cái gì
cũng có thể là đề mục thiền cả. Chú tâm tới bất cứ đối tượng
nào bạn đã quen chú ý – đó là những đề mục thường đến với
bạn một cách tự nhiên và dễ dàng. Quan sát…
quan sát
nó… và
nó trở
nên ngày càng
rõ nét
hơn, rất
nhanh,
rất
nhanh và rồi chợt dừng lại… bạn lại
đạt đến trạng thái an lạc đó và an trú ở đó trong suốt khoảng
thời gian mà bạn đã quyết định trước. Sự quyết định này rất
quan trọng, bởi
vì
nếu đã quyết định trước,
bằng cách luyện tập, bạn sẽ an trú trong đó suốt toàn bộ 5 phút hay
10 phút như đã ấn định và bạn có thể tiếp tục luyện tập và kéo dài
thời gian đó ra nửa giờ, một giờ, hai giờ hay suốt cả
ngày!
Bạn phải luyện tập thì mới
có thể nhập được vào trạng thái đó và an trú ở trong đó. Nếu không
luyện tập thường xuyên,
bạn sẽ thấy rất khó có lại nó.
Nhưng ngay cả khi luyện tập và thể nhập vào trạng thái đó, nếu không ấn
định trước thời gian an trú trong đó, tâm bạn sẽ bị dội ngược trở
lại nhiều lần, vào rồi lại ra… vào rồi ra… nó có thể sẽ diễn ra như
vậy suốt. Nếu muốn an trú lâu trong đó, bạn phải quyết định trước:
“Tôi sẽ thể nhập vào trạng thái đó trong 5 phút, nhưng nếu
có điều gì nguy hiểm xảy ra, tôi sẽ xuất ra khỏi nó”.
Đây cũng là một hình thức tự
nhắc nhở, khi bạn an trú sâu trong
trạng thái đó, nếu có bất cứ nguy hiểm nào xảy đến, bạn sẽ tự
động xuất định và đối phó với tình huống nguy hiểm. Nếu không quyết
định trước như vậy, bạn sẽ không thể xuất định được.
Trong kinh điển, có rất nhiều chỉ dẫn chi tiết: đâu là những việc cần
làm, thế nào là cách quyết định thích hợp, cách hành thiền thích
hợp, và những điều cần quán xét trước khi nhập định, chẳng hạn trong
trường hợp nào sẽ xuất
định. Đôi lúc bạn phải quyết định rằng:
“Nếu sư phụ gọi, tôi sẽ tỉnh lại ngay”. Ban phải thực hiện những quyết định cần thiết và tiếp tục
thực hành. Ngay cả một vị Alahán đôi lúc cũng còn thấy khó thể nhập
lại vào trạng thái đó,
nếu như có việc gì đó làm vị ấy phải lo lắng, quan tâm.
Có một câu chuyện về hai nhà sư nọ: một vị là thầy tế độ, niên cao lão
hạp, vị kia là học trò,
còn rất trẻ. Cả hai
thầy
trò đều đã đắc đạo, khi họ đến tá túc tại một ngôi chùa nọ, vị trưởng
lão cao hạ được ưu tiên ở một chỗ tốt. Bởi vì những cốc liêu tốt
nhất thường được dành riêng cho các vị trưởng lão, những
chỗ kém tiện nghi nhất
dành cho những vị sư nhỏ hạ, mới tu. Vị sư trẻ, vì nhỏ hạ nên
dĩ nhiên là được phân ở một
chỗ không tốt lắm. Nhưng vị
ấy rất hài lòng với chỗ mình ở, không lựa chọn. Vị ấy trú tại
đấy, hành thiền và thọ hưởng thiền lạc, bình an và tĩnh lặng suốt 3
tháng an cư mùa mưa nơi đó. Nhưng vị trưởng lão thì cứ lo lắng cho
học trò mình: “Tội nghiệp cậu học trò bé bỏng của tôi, ở chỗ đó
không được tốt lắm, có thể nó không được thoải
mái”. Bởi
vì lo
lắng,
vị
trưởng
lão không thể nhập được vào trạng thái thiền lạc đó.
Nên khi muốn
hành thiền, trước hết bạn phải nghĩ rằng: Không có điều gì là quan
trọng cả, buông bỏ tất cả!
Đó là lý do tại sao nhiều lần tôi phải nhấn mạnh điều này bằng nhiều
cách khác nhau như vậy. Khi hành thiền,
bạn phải nghĩ rằng không có gì là thực sự quan trọng cả. Như
vậy, về mặt tâm lý bạn đã tự tách mình ra khỏi mọi thứ. Không chỉ
thể nhập
vào trạng
thái thiền lạc đó,
mà ngay cả khi tọa thiền một tiếng đồng hồ, bạn cũng cần tự nhắc
mình rằng: “Không có điều gì thực sự quan
trọng cả, tôi
không cần
lo lắng
về
bất cứ điều gì”.
Không lo lắng về công
việc, không lo lắng về nhà cửa, chỉ trong vòng 1 tiếng đồng hồ, nó
chẳng hại đến ai cả, hãy quên hết tất cả mọi người trong 1 tiếng
ngồi thiền. Khi bạn tham gia khóa thiền tích cực này, hãy buông bỏ
hết mọi thứ trong 9 ngày của khóa thiền.
Không
có gì
thực sự
nghiêm trọng
xảy đến cả đâu.
Không có gì là quan trọng cả, chúng ta đã từng làm những công việc đó
trong vô số
kiếp quá
khứ. Tại sao lại cho nó là quan trọng đến thế?
Tại sao không thể buông bỏ tất cả trong 9 ngày.
Nếu trước mỗi thời thiền bạn đều làm như vậy, bạn sẽ thấy thời thiền đó
rất dễ dàng và tự
nhiên bạn
sẽ không bị
tán tâm, xao lãng. Vì vậy, hãy ra quyết định cho mình. Chúng
ta đã từng làm những công việc y như vậy trong bao nhiêu năm, bao
nhiêu kiếp rồi? Tại sao còn cho chúng là quan trọng đến thế? Và
chúng ta sẽ còn tiếp tục phải làm những
công việc
như vậy, không biết là trong bao
nhiêu kiếp sống tới nữa. Do đó, ra quyết định, chuẩn bị cho tâm và
tách biệt tâm khỏi mọi công việc là rất quan trọng… nhưng “Nếu có
điều gì nghiêm trọng xảy ra, tôi sẽ đối phó với nó ngay”.
Đôi khi, con người chúng ta thường lo nghĩ về những điều
hết sức vặt vãnh,
tự bắt
mình suốt
ngày phải
lo
lắng. Khi họ nói ra những nỗi lo toan đó, nó nghe thật buồn cười.
---o0o---
Phần
2: Niết
Bàn và
sau
đó
Ngay
ở tầng
đạo quả
đầu tiên,
một số phần tử vô
minh nhất định đã bị loại bỏ, chỉ những phần vô minh rất vi tế là
còn sót lại. Tầng đạo quả thứ tư tận diệt hoàn toàn tâm tham, bởi vì
ngay cả tham muốn một kiếp sinh tồn an lạc và thanh tịnh cũng không
còn. Moha (si) hay Avijja (vô minh) bị đoạn diệt hoàn toàn ở đạo quả
thứ tư, cùng với mana (mạn).
Nếu muốn tiến sâu hơn vào
các tầng đạo quả tiếp theo, khi hành thiền bạn phải quyết định:
“Tôi sẽ không thể nhập vào trạng thái đã từng có đó nữa, trong một
thời gian nhất định nào đó: một ngày, hai ngày, mười ngày”. Bạn
phải quyết định như vậy. Sự quyết định này rất quan trọng. Nếu hành
giả hành thiền với ý định chứng đạt tầng đạo
quả cao hơn, vị ấy nên quyết định
rằng: “Tôi sẽ
không thể nhập vào trạng thái
đó nữa, mà sẽ hành thiền để chứng đạt được tầng đạo quả tiếp
theo”. Và khi bạn nói: “Tôi sẽ không thể nhập vào trạng thái
ấy nữa”, bạn phải ấn định
thời gian,
trong bao
nhiêu giờ,
bao nhiêu ngày, vì nếu không làm vậy, khi hành
thiền bạn
sẽ lại thể
nhập vào
trạng
thái đó nữa. Và nếu cứ thể nhập mãi vào trong đó, bạn sẽ không thể tiến
lên tầng đạo quả cao hơn. Do đó, quyết định là việc rất quan trọng.
Đức Phật dạy chư Tỳ kheo
tập quyết định ngay cả trước khi đi ngủ. Khi đi ngủ, bạn hãy tự nhắc
mình: “Bây giờ tôi sẽ hành thiền, thư giãn và buông xả tất cả mọi
sự”.
Ngủ cũng là một cách buông
bỏ. Bạn đã bao giờ nghĩ đến điều đó chưa? Đi ngủ cũng là một loại
buông bỏ. Chúng ta không nghe, chúng ta không nhìn, chúng ta không
cảm nhận bất cứ cái gì nữa. Chúng ta không còn biết những gì đang diễn ra xung quanh mình nữa.
Nếu thực sự nghĩ về điều đó, nó rất đáng sợ, chúng
ta hoàn
toàn mất
liên hệ với thế
giới. Như vậy, đây chính là một loại buông bỏ và thực ra chúng ta
vẫn thường xuyên làm. Một số người
không ngủ được, một trong những nguyên nhân là họ không thể
buông xả, họ muốn kiểm soát cơ thể, kiểm soát môi trường xung quanh
mình. Họ cảm thấy không an toàn và an tâm. Vì vậy ở chỗ nào bạn cảm
thấy không an tâm, không an toàn, bạn sẽ không ngủ được. Đức Phật
dạy khi đi ngủ, vị Tỳ kheo nên hành thiền, thư giãn và buông xả và
quyết định: “Tôi
sẽ thức
dậy và
lúc
4 giờ sáng mai”.
Nếu thường xuyên làm như vậy, bạn sẽ thấy là mình thức dậy
vào đúng
4 giờ
sáng. Bạn
để
chuông báo thức và trước
khi chuông kêu bạn đã dậy. Nhìn đồng hồ thì vừa đúng giờ. Nhưng
thường là bạn thức dậy trước chuông. Tôi thường để chuông báo thức,
nhưng chỉ để phòng hờ vì tôi luôn luôn thức dậy trước khi chuông đổ.
Hãy tạo thành một thói quen như thế. Bạn cũng có thể quyết định:
“Lúc thức dậy vào buổi sáng, tôi sẽ tỉnh thức và chánh
niệm, tôi sẽ không mơ màng hay vẩn vơ nghĩ ngợi điều gì, chỉ với một
trạng thái tâm thật trong sáng, tỉnh thức và chánh niệm”. Điều
đó nghĩa là ngay lúc thức dậy bạn đã hành thiền ngay. Chúng ta có
thể quyết định được điều đó. Nếu ngày hôm nay nó chưa xảy ra, hãy cứ
tiếp tục quyết
định như
vậy rồi
nó sẽ
xuất
hiện và bạn sẽ rất vui vì điều đó. Khoảnh khắc bạn thức dậy là đã chánh
niệm ngay, không hề nghĩ ngợi điều gì. Tâm sẽ rất trong sáng và tỉnh
táo, không còn lờ đờ nữa. Hầu hết mọi người khi thức dậy vẫn còn rất
buồn ngủ. Đó không phải là cách thức dậy
tốt.
Quyết định là rất quan
trọng. Bởi vì một khi đã toàn tâm toàn ý quyết định điều gì, tâm bạn
sẽ tuân thủ.
Đây chính là cách chúng ta huấn luyện tâm mình để có được những kết quả
tích cực. Chúng ta có thể làm được điều
đó, có
rất nhiều
cách để
huấn
luyện tâm. Đây chỉ là một số thông tin bổ sung cho các bạn mà thôi.
Như vậy, hành giả hành
thiền trở lại và quyết định:
“Trong một khoảng thời gian nhất định, tôi sẽ không thể
nhập vào Thánh
quả định
của tầng
thánh thứ nhất
nữa, mà sẽ tiếp tục tiến lên để thành
đạt được tầng
đạo quả
thứ hai”.
Nếu bạn vẫn chưa thành đạt được đạo quả trong thời gian
đó thì cũng không sao, bạn vẫn có thể thể nhập vào Thánh quả định mà
mình đã đạt được. Bạn có thể an hưởng thiền lạc như vậy trong vài
giờ, vài ngày rồi sau đó lại tiếp tục huấn luyện quyết định tiến
tiếp lên tầng đạo quả cao hơn. Tại sao bạn cần
thọ hưởng
thiền lạc
của Thánh
quả
định? Bởi vì nó rất an lạc. Đầu tư tâm sức để tiến lên tầng đạo quả cao
hơn là việc làm ích lợi, nhưng cũng là một gánh nặng. Buôn bỏ mọi sự
và thể nhập
vào nơi
vắng lặng này, một không gian an lạc,
nó có tác dụng nghỉ ngơi rất tốt.
Kilesesu
ditthi
vicikicca pathamananavajjha;
doso
tatiyananavajjho;
lobha-moha-mana-
thina-uddhacca-ahirika-anottappani catutthananavajjhani.
~Vsm 684
Trong số các loại phiền não (kilesesu: các trạng thái tâm bất
thiện), nghi (vicikiccha) và tà kiến (ditthi) bị tận
diệt bởi
tầng đạo
quả đầu
tiên
(pathamananavajjha), sân (doso) được tận diệt ở tầng thánh
thứ ba (tatiyananavajjho). Tầng thánh thứ hai không đoạn trừ
được loại phiền não
nào
cả, mà chỉ làm suy yếu những phiền nào còn lại. Bạn có thể nhận thấy
rằng, trong tầng thánh thứ ba, chỉ có sân bị đoạn tận, ngay cả tham
ái cũng vẫn còn. Không còn luyến ái với ngũ dục, song vẫn còn khao
khát một cảnh giới sinh tồn cao thượng, thanh tịnh và an lạc. Do đó,
chúng ta không cho rằng tầng thánh thứ ba tận diệt được tất cả tham
ái bởi vì mong muốn một cảnh giới sinh tồn cao cũng là một loại tham
ái. Hãy xem nó rất vi tế như vậy đấy. Tham ái cuối cùng này, khao
khát (lobha) một
kiếp sống
an lạc,
thanh
tịnh được đoạn diệt ở tầng thánh thứ tư (catutthananavajjhani).
Bởi vì vẫn còn một loại mong muốn, nên nó cho thấy ở đó vẫn còn một
dạng tâm si nào đó. Chỗ nào có tâm mong cầu, dù nhỏ bé đến đâu, ở đó
vẫn còn tâm si. Đó là lý do si (moha) chỉ được đoạn trừ hoàn
toàn ở tầng đạo quả thứ tư.
Ngay ở tầng đạo quả đầu tiên, một số phần tử vô minh nhất định đã bị
loại bỏ, chỉ những phần vô minh rất vi tế là còn sót lại. Tầng đạo
quả thứ tư tận
diệt hoàn toàn tâm tham,
bởi vì ngay cả tham muốn
một kiếp sinh tồn an lạc và thanh tịnh cũng không còn.
Moha (si) hay
Avijja (vô minh) bị
đoạn diệt hoàn toàn
ở đạo
quả thứ
tư,
cùng
với
mana (mạn). Đoạn trừ mạn là gì? Là không so sánh mình với
người, không cống cao ngã mạn. Đôi khi chúng ta cảm thấy rất hài
lòng về những gì mình đã đạt được:
“Ồ, tôi đã thành đạt được điều
đó”. Đó cũng là một
loại ngã mạn. Không so sánh mình với người khác mà chỉ hài lòng về
những gì mình đã làm được, ngay cả điều đó cũng bị đoạn trừ ở tầng
đạo quả thứ tư. Thử tưởng
tượng xem với một trạng thái tâm như thế bạn sẽ được giải thoát như
thế nào, hoàn toàn giải thoát.
Thina-middha, hôn trầm thụy miên chỉ hoàn toàn tận
diệt ở tầng đạo quả thứ tư, do đó trước khi đạt đến giai đoạn đó,
hành giả vẫn có thể bị hôn trầm.
Một vị
Alahán không
bao giờ
còn
bị hôn trầm, buồn ngủ nữa. Vị ấy có
thể thức được rất lâu, thậm chí đến vài ngày nếu muốn, nhưng
nếu vị ấy muốn ngủ thì cũng có thể ngủ được ngay bất cứ lúc nào, tùy
ý. Nếu chúng ta làm được
như thế
thì thật
là tuyệt.
Uddhacca nghĩa là
tâm xáo động, trạo
cử, bất an. Thậm chí sau tầng đạo quả thứ ba (tầng Thánh Anahàm),
tâm hành giả vẫn có thể bị trạo cử, chỉ sau tầng đạo quả thứ tư thì
mới không còn trạo cử nữa; chỉ cần sự tĩnh lặng và chánh niệm hoàn
toàn. Ngay cả một vị Thánh Anahàm cũng không thể chán niệm hoàn toàn
100% được. Chánh niệm hoàn toàn chỉ diễn ra sau tầng đạo quả thứ tư.
Vô tàm (ahirika-không biết xấu hổ tội lỗi), vô quý (anottappa-không
biết ghê sợ tội lỗi); bởi vì sau tầng đạo quả thứ ba vẫn còn dư sót
lại một chút mạn (mana), vẫn còn lại một chút tâm tham. Theo
Vi diệu pháp (Abhidhamma),
điều đó nghĩa là
vị ấy vẫn còn một chút vô tàm, vẫn hãnh diện về những thành quả của
chính mình. Từ xấu hổ (tàm) ở đây không cùng nghĩa với từ xấu hổ
thường dùng trong cuộc sống hàng ngày. Khi hành thiền bạn sẽ hiểu
được điều đó.
Khi
tâm bạn thấy
điều gì đó là
xấu, nó xấu hổ về điều đó.
Bạn cảm thấy xấu hổ không phải vì ai đó phát hiện ra điều đó, mà
bởi vì
bạn biết
điều đó
là
không tốt đẹp. Chúng ta hầu như không thể kinh nghiệm được điều này bởi vì nó
chỉ được vượt qua ở tầng đạo quả thứ tư. Vì vậy, chúng ta vẫn còn
rất vô tàm.
Micchaditthi-musavado
micchakammanto
miccha-ajivo ti
ime athamananavajjha; micchasankappo pisunavaca pharusavaca
ti ime tatiuyananavajjha.
Cetana yeva
c’ettha vaca ti veditabba. Samphappalapa-
micchavayama-sati-samadhi-
vimuttinanani
catutthananavajjhani
~Vsm
684-5
Tà
kiến
(miccha-ditthi),
vọng
ngữ (musavada),
tà
nghiệp
(miccha-kammanta)
– làm những việc gây hại cho người như sát sanh, trộm cắp; tà mạng (miccha-ajiva),
tất cả bị tận diệt ở tầng đạo quả đầu tiên (ime pathamananavajjha).
Điều đó thật là tuyệt vời! Tà tư duy
(micchasankappo), nói vu khống, nói lời chia rẽ, đâm
thọc (pisunavaca), nói lời thô ác (pharusavaca) bị tận
diệt bằng đạo quả thứ ba (ime tatiyananavajjaha). Tận diệt
nghĩa là ý định làm những
việc đó
đã hoàn
toàn bị đoạn tận (cetana
yeva c’ettha vaca ti veditabba) chứ không chỉ cố gắng thu thúc,
tự chế nữa. Chúng ta đa phần chỉ cố gắng thu thúc, tự chế không nói
những điều như vậy, tự chế không nói chia
rẽ, đâm
thọc. Nhưng
ở tầng
đạo
quả thứ ba thì ngay cả ý
định nói những lời như thế
cũng không hề có nữa. Tầng đạo quả thứ tư tận diệt (catutthananavajjhani)
lời nói phù phiếm, vô ích (samphappalapa), tà tinh tấn (miccha-vayama),
tà niệm (miccha- sati), tà tinh tấn (miccha-samadhi),
tà giải thoát (miccha-vimutti) và tà tuệ (miccha-nana).
Đôi khi chúng ta nhớ lại những việc trong quá khứ:
“Ồ, tôi đã làm điều ấy điều nọ, đã hưởng thụ cái này cái
kia”, ngay cả những loại hồi tưởng như vậy cũng không còn nữa.
Chúng ta sẽ không còn suy nghĩ về quá khứ, chỉ nghĩ những điều chúng
ta thấy có lợi ích, chẳng hạn trước đây chúng ta đã học Pháp học và
bây giờ nhớ lại:
“Đức Phật
đã nói
điều ấy
điều
ấy… Đây là một loại chánh niệm (samma-sati). Ngay cả ở tầng đạo
quả thứ ba, hành giả vẫn còn muốn hồi tưởng lại những điều đã xảy ra
trước kia, không phải hồi tưởng về Phật Pháp mà
là hồi tưởng
về những
chuyện
khác. Khi suy nghĩ về một điều gì đó ngoài Phật Pháp, thì đó là suy
nghĩ vô ích, hồi tưởng vô
ích (miccha-sati-tà
niệm).
Cả tà định (miccha-samadhi)
cũng vậy, tâm bị cuốn hút vào bất cứ loại suy nghĩ nào, trong bất cứ
đối tượng nào, thậm chí cả vào việc đọc sách nữa – điều này sẽ không
còn nữa ở tầng đạo quả thứ tư. Tâm không bị cuốn hút vào những việc
vô ích nữa.
Tà giải thoát (miccha-vimutti) nhiều
khi hành giả chứng nghiệm được những trạng thái hỷ lạc trong
thiền mà thực ra đó không phải là trạng thái giải thoát thực sự,
nhưng họ lại tin rằng đó chính là giải thoát. Khi đã hoàn toàn giác
ngộ, vị ấy biết rằng tất cả những điều đó rồi cũng sẽ biến mất,
chúng không phải là sự giải thoát thực sự.
Tà tuệ (miccha-nana):
con người ta thường rất thông minh khi làm việc ác. Họ có thể vạch
kế hoạch rất tài, rất khéo và rất thông minh trên một phương diện
nào đó, đó là tà tuệ, tà trí. Điều này cũng bị tận diệt ở tầng đạo
quả thứ tư.
Mọi việc sẽ tiến triển như vậy (theo như kinh điển), ở mỗi giai đoạn sẽ
diễn ra những gì những gì. Biết tất cả những điều đó rất thú vị,
song tôi chỉ muốn chú trọng đến tầng đạo quả đầu tiên, bởi
vì đó là
điều chúng
ta đang
hy vọng đạt được,
chặng đường sau đó sẽ là rất khó khăn. Hầu hết các thiền sư đều nhấn
mạnh là không được dừng lại ở đó, phải tiếp tục tiến lên, nhưng tôi
biết có rất ít người tiếp tục đi tiếp. Họ cảm thấy quá thỏa mãn và
chỉ hưởng thụ.
Niết Bàn không phải là một nơi chốn, thậm chí cũng không phải là một
trạng thái tâm nữa. Khi một người đã thành đạt
được
tầng đạo
quả thứ
tư và
nhập
diệt (parinibbana), vị ấy không còn tồn tại ở bất cứ nơi nào nữa.
Tôi thấy trong một số cuốn sách nói: sau khi nhập diệt, vị
Alahán vẫn an trú và thọ hưởng trong cảnh giới hạnh phúc đó
mãi mãi. Bạn có biết tại sao họ nói như vậy không? Bởi vì họ vẫn
dính mắc vào một cảnh giới an lạc, hạnh phúc; vẫn muốn tiếp tục được
sống, tôi rất hiểu điều này. Cũng không có gì là quá khó hiểu về
điều đó, song bạn có thể thấy được sự dính mắc vẫn còn, muốn tiếp
tục được sống. Thậm chí họ còn nói là Đức Phật vẫn còn tồn tại
dưới một
hình thức
nào đó, ở một nơi nào đó, có thể là trong dãy núi Himalaya. Không, đây là những điều rất quan trọn
cần phải hiểu
rõ, dù
chỉ là
hiểu trên
mặt
kiến
thức, bởi vì hiện nay có rất nhiều tà kiến và những tư tưởng sai trái,
lệch lạc đang phổ biến
xung quanh chúng
ta.
Dù là hạnh phúc, an lạc thế
nào, dù người đó thanh tịnh đến đâu, Đức Phật vẫn nói rằng đó không
phải là sự giải thoát đích
thực. Niết Bàn không phải
là một cảnh giới,
cũng
không phải là một trạng thái nào cả.
Bản chất của Niết Bàn hoàn
toàn ngược với bản chất của các hiện tượng tâm – vật lý. Điều này cũng
rất quan trọng. Một số người nói Niết Bàn và luân hồi (samsara)
cũng chẳng có gì khác
nhau. Không,
rất rõ
ràng là
không
phải như vậy… Nhưng để hiểu được Niết Bàn, bạn phải hiểu luân hồi đã.
Luân hồi (samsara) nghĩa là tiến trình tâm – vật lý, nó được gọi là luân hồi chứ
thực chất chẳng phải là một câu chuyện nào cả… Luân hồi thực sự, vòng luân hồi chuyển vận vòng quanh thực sự
chính là tiến trình tâm lý và vật lý đang diễn tiến trong từng giây
từng phút này; đó mới là luân hồi. Sự chấm dứt của nó chính là Niết
Bàn. Bạn vẫn có thể nói Niết Bàn có quan hệ với tiến trình tâm lý và
vật lý, nhưng Niết Bàn không nằm trong tiến trình đó. Nó nằm ngoài
tiến trình, ở bên lề của tiến trình. Bạn chỉ có thể nói Niết Bàn có
quan hệ với luân hồi ở chừng đó mà thôi.
Vì thế
Đức Phật mới nói: “Ta tuyên bố Niết Bàn chỉ ở trong tấm thân này”
(~SN
i.62)
điều đó không có nghĩa là
Niết Bàn nằm ở bên trong thân. Mà có nghĩa bằng cách liễu tri tấm
thân này, liễu tri ngũ uẩn, liễu tri tiến trình tâm – vật lý này một
cách hoàn toàn đầy đủ, chúng ta sẽ đến được Niết Bàn. Ngoài ra không
có con đường nào khác.
Khi nói rằng đạo quả này tận diệt được những loại phiền não này, nghĩa
là thế nào? Liệu chúng ta có thể tận diệt được những phiền não trong
quá khứ không? Không thể, bởi vì nó đã xảy ra rồi, bởi vì nó đã
thuộc về quá khứ. Chúng ta có thể
diệt được
những phiền
não
đang
diễn ra trong hiện tại không? Chúng ta thường nghĩ rằng
mình có
thể làm
được điều đó. Nhưng bạn có nghĩ là nếu không diệt được thì nó
vẫn còn đó không? Bất cứ việc gì đang xảy ra bây giờ, chẳng hạn bạn
đang giận, bạn có thể làm được gì nó nào… cơn giận vẫn cứ tiếp diễn
từ sát na này qua sát na kia. Thực chất mỗi trạng thái tâm là một
cơn giận riêng biệt, vì chúng tiếp diễn rất nhanh, nên chúng ta nghĩ
nó là một cơn giận rất ghê gớm. Không có cái gì là một cơn giận ghê
gớm như vậy cả, chúng chỉ là những cơn giận nhỏ góp lại mà thôi. Diễn ra
trong một sát na ngắn ngủi rồi tự biến mất, nó không bao giờ ở lại.
Chúng ta không thể nói: Ơi này,
cái giận
ơi, mày
hãy
ở
lại đây đi… ở lại với tao nào. Nó sẽ đi mất. Chúng ta không cần phải
diệt cái giận đang diễn ra trong hiện tại. Như vậy khi nói tầng đạo
quả này tận diệt loại phiền não này, điều đó không có nghĩa là nó
diệt phiền não sẽ sanh khởi trong hiện tại. Có phải nó diệt phiền
não sẽ sanh khởi trong tương lai? Bạn đâu có biết được những phiền
não sẽ diễn ra trong tương lai, bởi vì nó vẫn chưa xảy ra mà. Chúng
ta không thể diệt được cái chưa xảy đến. Điều này có nghĩa đạo quả
không tận diệt nhưng phiền não ở cả trong quá khứ, hiện tại lẫn
tương lai. Nó tận diệt cái tiềm năng sanh khởi của phiền não. Tiềm
năng sanh khởi phiền não có ở đó nhưng nó chưa
xuất đầu
lộ diện
ra mà
thội,
nếu
bạn tận diệt được tiềm năng này, nó sẽ chấm dứt… sẽ không thể khởi sanh
lên được nữa.
Do bởi những phiền não quá
khứ, do bởi nghiệp quá khứ mà chúng
ta có mặt ở đây,
trên cõi đời này. Và chính cái nghiệp chúng ta đang mang này, chúng
ta mang nó dưới dạng nào? Chúng ta mang theo phiền não dưới hình
thức nào? Chỉ dưới hình thức một tiềm năng mà thôi. Đây là những
điều rất vi tế, khó
hiểu nổi,
nó vẫn
chưa được
hiển lộ, chỉ là những tiềm năng. Hãy nghĩ đến những hạt giống như
là một dạng tiềm năng, nó có tiềm năng để trở thành một cái cây lớn.
Bây giờ bạn muốn hủy diệt cái
cây ấy
đi. Ở
trong quá
khứ, nó
đã
xuất hiện và đã chết đi, bạn không cần phải diệt nó làm gì. Trong hiện
tại, cái cây đang chết dần, thì chỉ cần mặc cho nó tự chết mà thôi.
Nhưng trong tương lai thì nó vẫn chưa trở thành một cái cây. Vậy nếu
bạn muốn diệt nó thì chỉ cần tiêu diệt hạt giống của nó là đủ. Tiềm
năng cũng giống như hạt giống cây vậy. Bạn có thể nói một cách xác
quyết rằng, chẳng hạn bây giờ đang là 5 giờ kém 5 phút, chính xác 1
giờ sau sẽ có một loại phiền não nào khởi lên được không? Không ai
có thể nói được điều đó, bởi vì nó không chắc chắn. Nhưng luôn có
tiềm năng cho bất cứ cái gì sanh khởi. Nếu bạn triệt tiêu được cái
tiềm năng đó, nó sẽ chấm
dứt.
Tiềm năng này không phải ở trong quá khứ, bạn cũng không thể nói nó ở
trong hiện tại bởi vì nó vẫn chưa được thể hiện ra. Tiềm năng này là
một thứ rất khó để hiểu… nó có thể hiển lộ, nó chỉ là khả năng tiềm
tàng, tiềm tàng để hiển lộ. Do đó, chính loại phiền não này là thứ
bị đạo quả tận diệt, và vì thế chúng ta gọi là cảnh giới Niết Bàn.
Chúng ta
không thể
nói Niết
Bàn là
quá khứ, hiện tại hay vị lai.
Niết Bàn là phi thời gian,
vượt ra ngoài thời gian,
không ở trong vòng quay của thời gian nữa.
Đây là một điều
rất dễ
nhầm lẫn
và khó
phát
biểu. Có thể một số nhà vật lý học hạ nguyên tử sẽ hiểu được điều đó.
Nghiệp cũng là một tiềm năng. Khi đạt đến một giai
đoạn giác
ngộ nào
đó, một số loại nghiệp nhất định sẽ không thể cho quả được
nữa. Những nghiệp bất thiện mà chúng ta đã chồng chất trong quá khứ,
sau một tầng đạo nữa nhất định nào đó sẽ không còn cho quả nữa.
Nghiệp nằm ở đâu? Chúng ta đang mang theo nghiệp bằng cách nào?
Chúng ta mang nó theo mình như là một dạng tiềm năng. Đây là điều
rất khó để hiểu được. Chẳng hạn như chúng ta có tiềm năng – khả năng
tiềm tàng là sẽ tức giận, bây giờ thì chưa tức.
Nhưng bất
cứ một
người nào
đó
cũng có thể ấn cái nút của chúng ta và làm chúng ta tức giận. Chúng ta
không thể nói trước lúc nào mình sẽ tức giận. Chúng ta đang triệt
tiêu cái tiềm năng khiến cho sự tức giận bùng nổ, hạt giống sanh
khởi phiền não trong mình. Đôi lúc, ngay cả một nhà sư học vấn uyên
thâm cũng chưa chắc đã có thể hiểu được điều này, để hiểu nó cần
phải mất cả một thời gian dài.
Để hiểu được thì cách tốt
nhất là thực hành.
Đó là
lý do tại sao Đức Phật nói rằng Niết Bàn
là điều không thể nghĩ bàn. Bạn không thể hiểu nó bằng suy
nghĩ. Niết Bàn không phải là một cái gì đó sanh lên hay xảy ra.
Chúng ta
cũng không
thể nói
được
khi nào Niết Bàn sẽ xảy
đến. Niết Bàn là một thực tại mà người nào có đủ trí tuệ sẽ chứng
nghiệm. Nó phụ thuộc vào mức độ sáng suốt của trí tuệ.
Trí tuệ càng sáng suốt, bạn sẽ chứng nghiệm càng rõ ràng.
Do đó, ở tầng đạo quả đầu tiên, kinh nghiệm Niết Bàn không giống với
tầng đạo quả thứ hai, thứ ba và thứ tư. Bản chất của Niết Bàn thì
vẫn như vậy, nhưng bởi mức độ thuần khiết khác nhau của trí tuệ, bạn
chứng nghiệm nó khác nhau. Cũng giống như khi nhìn, mắt càng sáng
thì nhìn càng rõ nét hơn. Ngay cả tìm một ví dụ để diễn tả điều này
cũng rất khó.
Vì vậy, Đức Phật nói rằng không có ví dụ nào diễn đạt được về Niết Bàn.
Không có ngôn từ nào, không có ý niệm nào, không có ngôn ngữ nào có
thể thực sự diễn tả được nó. Niết Bàn nghĩa là “dập tắt”. Trong kinh
Tam Bảo (Ratana-sutta)
nói: “Nibbanti dhira yathayam padipo”, Niết Bàn như ngọn lửa
tắt, không còn triền cái, chướng ngại (niravana), không còn
tham ái, không còn khao khát mong
cầu.
Hỏi & đáp:
Đức Phật đã thuyết một bài
kinh, Kinh Tấm gương – Dhammadasa Sutta. Trong đó, Đức Phật
nói rằng một
vị Thánh
Tu-đà-hoàn có những phẩm
chất như
sau: vị
ấy
có
niềm tin bất động nơi Phật, Pháp,
Tăng; vị ấy không bao giờ phạm giới. Nếu bạn thấy mình đã có
đủ những phẩm chất ấy, bạn có thể tự nói với mình:
“Tôi là một vị Thánh Tu-đà- hoàn”.
Nhưng nếu không có kiến thức về những điều đó – kiến thức
sách vở thôi, hoặc giả chưa bao giờ bạn nghe nói đến điều đó cả, thì
mặc dù đã chứng nghiệm Niết Bàn, nhưng bạn sẽ không biết gọi nó là
cái gì. Bạn có tất cả những phẩm chất và kinh nghiệm đó, nhưng có
được kinh nghiệm và phẩm chất không nhất thiết cần phải biết nó là
cái gì. Chẳng hạn, tôi đưa
cho bạn một cái gì đó để ăn. Tôi bảo bạn nhắm mắt lại và há mồm ra,
tôi đút vào miệng
bạn. Bạn
có thể
tả được
vị
của nó. Tôi hỏi bạn vị của
nó thế nào. Bạn sẽ trả lời: “Ồ, nó hơi ngọt ngọt, hơi chua chua,
nó ngon lắm”. Và nếu tôi
hỏi bạn
đó là
món gì,
bạn sẽ nói:
“Tôi không biết, tôi biết được vị của nó, nhưng không biết
tên của nó là gi”.
Như
vậy bạn biết được hương vị, nhưng không biết tên nó là gì, điều đó
rất là tự nhiên. Thánh quả Tu-đà-hoàn là một từ để chỉ một kinh
nghiệm. Để cho chắc chắn, tôi xin trích dẫn một đoạn của Ngài Ledi
Sayadaw: “Hãy chờ đợi cho đủ lâu; thậm chí phải đợi trong rất
nhiều năm; bởi vì bạn sẽ phải chịu sự kiểm tra, thử thách ở thế gian
và trong cuộc sống hàng ngày của chính bạn”.
Do đó, bạn không
thể nói một cách
xác quyết
ngay rằng:
“Ồ,
có
thể mình đã đắc được đạo
quả đầu tiên rồi”,
đừng vội vàng kết luận bất
cứ điều gì.
Hãy đợi
cho đủ
lâu, bạn
sẽ phải chịu thử
thách và rồi có thể sẽ thấy ra rằng:
“Ồ, không phải vậy, mình vẫn phải hành thiền tiếp thôi”.
Đây được gọi là tà giải thoát (miccha-vimuti): bạn chưa
giải thoát nhưng cứ nghĩ là mình đã được giải thoát. Nhưng thật ra,
bất cứ ai cũng có thể phạm phải sai lầm như vậy. Chúng ta đừng lên
án họ. Nếu trung thực, thì sau này anh ta sẽ nhận
ra được điều đó, bởi vì trên thế giới
này có biết bao nhiêu người và biết bao nhiêu hoàn cảnh đang
“bấm nút” kích nổ của bạn trong mọi lúc, và bạn phản ứng lại. Nếu
bạn chân thực, bạn sẽ biết được
điều đó.
Nhưng nếu
bạn
không
chân thực thì sẽ chẳng ai nói cho bạn biết điều đó cả. Nó giống như một
trò lừa đảo vậy, lừa một cách rất tinh vi.
Hỏi & đáp:
Mỗi người kinh nghiệm uẩn (khandha)
khác nhau và theo cách khác nhau. Có người kinh nghiệm cảm thọ sanh
diệt nhiều hơn. Có người kinh nghiệm tâm sanh diệt hơn. Nó phụ thuộc
cả vào cá tính của hành giả nữa. Đối với những người mới hành thiền
thì nên bắt đầu từ cảm thọ. Bất cứ cái gì bạn cảm nhận được ở trên
thân cũng đều là cảm thọ. Và trong tâm thì là cảm xúc. Tôi nhấn mạnh hơn đến cảm thọ bởi vì đối với những
người mới hành thiền thì đây là chỗ họ bắt đầu. Đối với những
người mới
thì rất
khó có
thể
bắt
đầu từ các suy nghĩ hay các trạng thái tâm được. Về sau thì điều đó tùy
thuộc vào cá tính của mỗi người. Ngay cả lúc đầu bạn bắt đầu thực
hành từ niệm thân (kayanupasana) – các cử động của thân, hay
các cảm thọ (vedananupassana); khi đã thực hành đủ lâu, nó sẽ
hướng tới niệm xứ mà bạn có thiên hướng thực hành theo. Điều đó sẽ xảy ra một cách rất
tự nhiên. Trong thân, chúng ta cảm nhận được thọ lạc – cảm giác dễ
chịu (sukha-vedana),
thọ khổ - cảm giác
khó
chịu (dukkha-vedana) và thọ xả - cảm giác trung tính (upekkha-vedana).
Trong tâm, chúng ta cảm nhận được các loại cảm xúc: cảm xúc khó chịu
và cảm xúc
dễ chịu.
Và đôi
khi cả
hai
(thọ
và tâm) lại có liên quan với nhau. Khi bạn cảm thấy đau đớn trong thân
thì cũng cảm nhận được cảm xúc khó chịu trong
tâm, bạn
cảm thấy
rất khổ
sở: “Ôi, sao mà
đau thế!”. Như vậy chúng đều có liên quan với nhau. Nhưng không
phải luôn luôn lúc nào cũng có liên quan với nhau, không nhất thiết
là như thế, bởi vì nếu bạn là một thiền sinh giỏi, không kể đến một
vị Alahán, thì mặc dù thân đau nhưng tâm vẫn bình an. Các vị Thánh
Alahán không còn bị tác động bởi sự đau đớn trong cơ thể nữa. Điều
đó tùy thuộc vào việc bạn
huấn luyện tâm mình như thế nào.
Hỏi & đáp:
Tận diệt
gốc rễ của tham và sân diễn ra ở tầng đạo quả thứ ba, hoàn toàn nhổ
rễ mọi tham muốn dục lạc thế gian. Nhưng vẫn còn mong muốn về một
kiếp sinh tồn an lạc. Ham muốn dục lạc được đoạn trừ bằng tầng đạo
quả thứ ba. Tất cả sân bị tận diệt cũng ở tầng đạo quả thứ ba. Khi
mới thực hành bạn không thể tận diệt được nó. Khi nó xảy ra thì
chúng ta chú tâm vào nó, quan sát nó một cách cặn kẽ và bằng
cách chú
ý một
cách sâu
sát, nó
sẽ trở nên yếu dần đi. Rồi có những lúc
nó không hề khởi lên, tâm trở nên rất trong sáng và bình an,
lúc đó hãy chú tâm nhiều hơn nữa đến các cảm thọ và cảm xúc trung
tính này. Khi có tâm tham
hay tâm
sân mạnh
xảy đến
thì
điều quan trọng là phải quan sát nó, nhưng khi nó quá mạnh thì chúng ta
không còn sáng suốt được nữa, mặc dù vẫn có thể chú tâm.
Những tuệ giác bậc cao thực sự chỉ có thể xảy ra khi tham và sân không
còn ở đó nữa, hoặc ít nhất cũng phải tạm thời vắng mặt. Đó là lý do
tại sao ở tầng tuệ thứ 11 (Tuệ Xả Hành) chỉ có một tâm xả hoàn toàn;
không tham cầu, không sân hận, không bất mãn, không trạo cử bất an.
Tâm trở nến rất thanh tịnh, thuần khiết và rồi đột phá. Như vậy
trước thời điểm đột phá thì điều này là rất cần thiết. Nhưng ở trong
giai đoạn đầu thực hành, tham sân có thể xuất hiện
trở lại
nhiều lần,
chúng ta
phải
vượt qua chúng. Thậm chí ngay cả những bất mãn trong quá trình thiền
tập, ngay cả những
dính mắc
của chúng ta vào
trạng thái an lạc của thiền cũng đều phải vượt qua, buông bỏ và xả
ly. Đó là lý do vì sao việc quan sát và buông bỏ chúng là điều rất
quan trọng. Mỗi khi có tâm sân khởi lên, chúng ta có thể thấy nó
khởi len bởi vì chúng ta có những chờ mong, ước muốn, dính mắc và
khao khát nào đó, nên chúng ta mới phải buồn bực, thất vọng. Chúng
ta có thể thấy được cả hai điều đó. Khi cái này có thì cái
kia có. Khi mong muốn một điều gì đó thì có sự bất an,
lo lắng không biết mình có đạt được điều đó hay không; điều
này quả thật là một
nỗi khổ.
Thực chất,
mong
muốn,
khao khát là đau khổ, là bất mãn. Bất cứ khi nào chúng ta khao khát,
mong cầu một điều gì là khi đó chúng ta cảm thấy mình thiếu thốn, bất
mãn và sự bất mãn này chính là đau khổ. Ở tầng tuệ thứ 11, những điều như
vậy không còn diễn ra nữa, không còn mong cầu, khao khát, không sân
hận, bất mãn, chỉ có một sự quân bình và sáng suốt hoàn
toàn.
Hỏi & đáp:
Trong
khuôn khổ một khóa thiền tích cực như thế này, tôi không có đủ thời
gian để giải thích tất cả những câu hỏi “tại sao”, mà chỉ có thể
nói cho các
bạn biết
những điều
cần phải làm. Khi đã có chuẩn bị là đã làm được
một nửa công
việc rồi.
Chuẩn
bị
tốt
là đã
hoàn thành
được
một nửa
công việc. Vì vậy, hãy chuẩn bị khi đến đây, bây giờ hãy ngồi
thiền và cũng chuẩn bị cả cơ thể mình nữa. Bây giờ đang ngồi
đây, trong khóa
thiền tích
cực này, bạn sẽ
thấy là không dễ để ngồi cho trọn một tiếng đồng hồ được đâu, tâm
bạn sẽ bị trạo cử, phóng đi đây đó hoài. Bạn cần phải bắt đầu chuẩn
bị ngay từ bây giờ, chuẩn bị tâm của mình, chuẩn bị cơ bắp và hệ
thống thần kinh của mình
nữa. Bạn
không thể
cứ chờ
đợi nó sẽ phải diễn
ra đúng như mình nghĩ, ngay cả một vận động viên chạy cũng cần phải
chuẩn bị nữa là chúng ta. Vì vậy, hãy hành thiền mỗi ngày, ngay từ
bây giờ. Đây là một kinh nghiệm rất lý thú;
nó không
phải là
công việc
bạn
làm thường xuyên. Chỉ có 9 ngày hành thiền tích cực; 9 ngày quý báu. Tôi
không muốn phung phí, dù chỉ là một phút, nhưng tôi cần tất cả các
bạn cùng tham gia. Làm thế nào để tất cả chúng ta cùng hợp sức cho
khóa thiền thành công tốt đẹp nhất đến mức có thể. Tôi muốn có một
bầu không khí thân ái và thoải mái. Có người nói khóa thiền tích cực
là một “cách ứng xử”. Đây là điều rất đặc biệt. Tôi thực sự hy vọng
các bạn sẽ kinh nghiệm được một điều gì đó, một điều thật quý báu
nào đó cho mình. Thời gian thật ra không thành vấn đề. Chỉ trong một
vài ngày, song một số người cũng có thể kinh nghiệm được những điều
rất ý nghĩa và sâu sắc
---o0o---
Mục Lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05
06 |
07 |
08 |
09 |10
|11
BACK
|