|
Bản Đồ
Hành Tŕnh
Tâm Linh
Thiền Sư
Sayadaw U Jotika
Tỳ Kheo Tâm Pháp
dịch
Chương 8
Từ tuệ
thứ năm đến tuệ thứ
mười: Từ Tuệ Diệt đến Tuệ Thấy Nguy Hiểm, Tuệ Kinh sợ, Tuệ Yếm ly, Tuệ Muốn Giải thoát và Tuệ Giản
trạch.
Phần 1: Từ tuệ thứ năm đến tuệ thứ mười: Từ Tuệ Diệt đến Tuệ Thấy
Nguy
Hiểm, Tuệ
Kinh sợ,
Tuệ Yếm
ly, Tuệ Muốn Giải thoát và Tuệ Giản
trạch.
Trong quá tŕnh thấy sự
diệt, không có cái xen vào giữa. Tâm không bị xao lăng, phân tán vào
bất cứ thứ ǵ khác; ở giai đoạn này có rất ít suy nghĩ. Ở tầng tuệ
đầu tiên, hành giả suy nghĩ một chút. Ở tầng tuệ thứ hai, hành giả
suy nghĩ nhiều về nguyên nhân của sự sanh, sự hay
biết và sự suy nghĩ. Ở tầng tuệ thứ ba c̣n nhiều suy nghĩ hơn
nữa về thiền, về vô thường, khổ, vô ngă. Ở tầng tuệ thứ tư các suy
nghĩ bớt dần đi. Ở tầng tuệ thứ 5, hầu như không c̣n một chút suy
nghĩ nào nữa. Bạn không thể
nghĩ được
nữa. Sự
diệt
diễn ra rất nhanh, bạn
không có thời gian để suy nghĩ về nó nữa. Tiến tŕnh sẽ tiếp tục như
thế cho đến khi đạt tới tầng tuệ thứ 9. Ở tầng tuệ thứ 8 và tầng tuệ
thứ 9, một số suy nghĩ bắt đầu quay trở lại, nhưng đó chỉ là những
suy nghĩ về Pháp, chứ không phải suy nghĩ chuyện đời.
TỪ tuệ
thứ năm
đến tuệ
thứ
mười:
Từ Tuệ
Diệt đến Tuệ Thấy Nguy Hiểm, Tuệ Kinh sợ, Tuệ Yếm ly, Tuệ Muốn Giải
thoát và Tuệ Giản trạch.
Trước khi nói về tuệ giác tiếp theo, tôi muốn trút nhẹ tâm tư khỏi những
suy nghĩ trong
hai ngày
vừa qua.
Tối
ngày
27 tháng 3 tôi được nghe một tin kinh khủng, từ lúc đó tôi luôn cảm thấy
rất buồn cho những người liên quan đến
sự kiện trên. Tại Nam California, 39 người đă tự tử. Tại sao?
Tôi không biết chi tiết về việc này, nhưng dù tự tử v́ bất cứ lư do
ǵ, đó cũng không phải là một điều tốt đẹp. Sự kiện này cho thấy
những người này, họ không chỉ mong muốn
mỗi tiền
bạc và
vui thú
trong đời. Họ muốn
được hướng dẫn và dạy bảo. Họ muốn có người lănh đạo tốt. Song họ
không có được một thủ lĩnh tốt, do đó họ đă đi sai đường. Cái chết
không phải là
một giải
pháp tốt
đẹp. Không có lư do nào là hợp lư để chết cả.
Tôi sẽ kể cho các bạn nghe một số câu chuyện về Đức Phật và các Thánh đệ
tử Alahán của Ngài. Khi các đại đệ tử của Đức Phật đắc quả
Alahán, họ sống đến hết tuổi thọ của ḿnh, sống thuận với quy luật
tự nhiên của cơ thể, họ
biết trước khi nào ḿnh chết, nghĩa là lúc nhập vô dư Niết bàn (parinibbana).
Cái chết của một vị Alahán không giống như cái chết của đại đa số
mọi người chúng ta. Đối với phần lớn mọi người, khi họ chết, một
phần tính chất nào đó vẫn tiếp tục tái sanh (tiến tŕnh vẫn tiếp
diễn). Song khi một vị Alahán tịch diệt, đó là điểm chấm dứt của
tiến tŕnh ấy. Do đó, các vị đại đệ tử thường đến bạch với Đức Phật:
“Bạch Thế Tôn, con
sẽ nhập
vô dư
Niết Bàn
vào
giờ ấy, ngày ấy”.
Đức Phật không bao giờ nói hăy làm hay đừng làm điều đó; bởi v́ bảo
đừng làm nghĩa là c̣n dính mắc, chấp thủ vào sanh hữu, vào kiếp sống
– là điều Đức Phật không bao giờ khuyến khích. Song nói:
“Đó là một việc tốt nên làm” th́ lại giống như ca ngợi
cái chết. Bạn có biết trong những trường hợp như vậy, Đức Phật nói
thế nào không? “Con
biết thời điểm Vô dư Niết Bàn của ḿnh!”. Điều quan trọng là
hiểu được lư do tại sao Đức Phật nói như thế. Ngài không bao giờ
nói: “Con hăy nhập Vô
dư Niết Bàn” hay
“Đừng làm như thế”. Đức Phật không bao giờ ca ngợi cách nào cả.
Chết không phải là một
giải
pháp.
Nếu quả thật chết là một giải pháp tốt đẹp th́ có lẽ điều đó lại rất
hay. Khi c̣n trẻ, tôi nghĩ rằng nếu không c̣n cuộc sống nữa th́ sẽ
rất tốt, chỉ cần chết thôi là xong tất cả. Nhưng bạn c̣n phải sanh
lại nữa. Đó là sự thật. Việc bạn làm bây giờ và cách bạn chết như
thế nào sẽ ảnh hưởng đến những kiếp sau của bạn.
Ngay cả khi phải chết,
chúng ta cũng phải học
cách chết
thật tốt
đẹp, chết
với chánh niệm. Đừng bao giờ sử dụng cái chết như một giải
pháp. Đức Phật không bao giờ ca ngợi cái chết.
Tôi cảm thấy rất buồn cho những
người tự tử như vậy. Họ thực sự mong muốn một điều ǵ đó và
họ sẵn sàng để mua nó bằng chính cuộc sống của ḿnh. Họ muốn từ bỏ,
từ bỏ vui thú dục lạc và thậm chí cả cuộc đời ḿnh để đổi lấy một cái ǵ đó tốt
đẹp hơn. Đó không phải là
một giải pháp tốt và điều đó cũng cho thấy xă hội hiện nay đầy rẫy
nhưng điều bất toại nguyện và đau khổ. Nhiều người có tiền của và
sống vui thú, hưởng thụ, nhưng họ không hề hạnh phúc.
Thực sự tôi cũng muốn khuyến khích mọi người tham gia sinh hoạt trong
một tập thể, một nhóm bạn đạo, song bạn
phải lựa
chọn hết
sức cẩn
thận.
Bạn phải biết rơ mục đích và những điều họ dạy là ǵ. Ở đây chúng ta
biết rơ ḿnh đang làm việc ǵ. Chúng ta
biết rơ mục đích của ḿnh.
Đừng bao giờ nghe theo thầy
một cách mù quáng, ngay cả với tôi cũng vậy. Đức Phật không khuyến
khích mọi người theo lời Ngài một cách mù
quáng.
Hầu hết
các bạn
ở đây
đă biết
bài kinh
Kalama sutta. Trong bài kinh đó, Đức Phật dạy:
“Đừng vội tin vào bất cứ điều ǵ.”
Điều này rất quan
trọng; lời dạy này của Đức
Phật rất mới, rất cách mạng. Điều quan trọng là phải hiểu
biết sâu
sắc về
Phật Pháp.
Ngay
cả
người theo đạo Phật đôi khi cũng diễn dịch sai giáo pháp cho phù hợp với
tư kiến của ḿnh. Không ai có thể ngăn
họ làm điều đó, nhưng nếu bạn hiểu được cốt lơi căn bản thực
sự của Phật Pháp, bạn sẽ thấy ra được đúng sai. Rất nhiều điểm cốt
yếu, quan trọng chúng ta có thể kiểm chứng được bằng cách
đó.
Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục bài giảng về thiền vipassana. Cái tôi đang muốn làm ở đây là, bởi v́, khi
người ta viết hay giảng về thiền
vipassana, tôi nhận thấy những điều họ viết và giảng
thường là sai. Họ cố gắng giảng về thiền
vipassana, nhưng những điều họ nói
không thực
sự chính
xác.
Những
điều họ giảng về tuệ giác hay sự chứng đạo không đúng. Đó là lư do tại
sao tôi cố gắng diễn đạt rơ ràng, bằng một ngôn ngữ đơn giản thế nào
là tuệ giác và thế nào là chứng đạo, để các bạn biết đúng sai khi
nghe ai nói về điều đó. V́ vậy tôi cũng giới thiệu các trích đoạn
Pali kèm theo, đó là những lời dạy của Đức Phật. Những trích đoạn
này chỉ là những tiêu chí. Bạn có thể kiểm nghiệm chúng.
Hôm nay tôi
sẽ nói tiếp về tuệ thứ
năm. Bốn tầng tuệ đầu tiên rất quan trọng. Chúng ta phải đi
chậm và nói chi tiết hơn các tuệ khác. Song khi đă đạt đến tuệ thứ
tư th́ phần c̣n lại sẽ dễ dàng hơn.
Tuệ đầu
tiên khó,
tuệ thứ
hai
và
tuệ thứ ba không khó lắm, đến tuệ thứ tư lại khó. Nếu bạn tiếp tục thực
hành, tuệ thứ 5 sẽ đến tiếp theo một cách tự nhiên. Ở tuệ thứ tư bạn
đă thấy sanh diệt một cách rất rơ ràng, thấy cả hai: sanh và diệt,
sanh diệt rất rơ. Ở tuệ thứ 5, sanh diệt trở nên nhanh hơn. Sau
một thời gian thấy sanh diệt… bạn không chú ư nhiều đến sự
sanh nữa, mặc dù vẫn có thể thấy nếu chú tâm đến nó, nhưng bạn sẽ
chú ư nhiều hơn đến sự diệt, sự biến mất, không c̣n ở đó nữa. Bạn
chú tâm đến nó và nó không c̣n ở đó nữa…
Khoảnh khắc bạn cố nhận
biết, cố thấy một cái ǵ đó, nó liền biến mất. Bạn
không thể
thực sự
thấy được
nó,
chỉ thấy được một thoáng
của nó, rồi nó
không c̣n
ở đó nữa. Đó
là một
đặc điểm của tuệ thứ 5.
Một đặc điểm quan trọng nữa là: khi nhận biết một đối tượng nào đó, như
âm thanh chẳng hạn, bạn nghe âm thanh và nó liền biến mất. Bạn hay
biết một loại cảm giác nào đó trong thân, ngay khoảnh khắc bạn hay
biết, nó đă không c̣n ở đó nữa. Bạn thấy tâm nhận biết cũng biến
mất. Trong cùng một tiến tŕnh không gián đoạn, không hề có một suy
nghĩ nào chen ngang, bạn thấy được cả hai cùng biến mất. Một từ
Pali, nata, nghĩa là được biết, có một cái ǵ đó được nhận
biết. Khi bạn chú tâm
đến một
đề mục,
đề
mục
đó được gọi là
nata,
cái được hay biết. Vậy, lúc đầu hành giả thấy đề mục diệt mất, biến
mất. Sau đó là nana, nghĩ là tuệ giác biết đề mục đă diệt
mất. Thấy được cái ǵ đó diệt, đó chính là tuệ giác, đó là
anicca-nana, trí tuệ hiểu
biết vô thường. Hành giả quán sát đề mục và thấy nó sanh
diệt, song vị ấy thấy sự diệt của nó rất rơ ràng; nó đă diệt mất,
không c̣n ở đó nữa. Và cả tuệ giác
vipassana nữa, tâm (hợp với
trí tuệ) cũng diệt. Vậy cả đề mục (nata) và tuệ minh
sát (nana) cùng diệt. Cũng cùng tiến tŕnh như vậy đối với
mỗi sự nhận biết, mỗi khi chú tâm, hành giả thấy được cả hai, không
cần cố gắng, và không cần phải cố cũng thấy được cả
hai diệt
mất. Chỉ
trong một
sự
nhận
biết, cái này tiếp nối cái khác một cách tự động, không hề có một suy
nghĩ nào chen ngang. Đó là một đặc điểm rất quan trọng và khác biết
của tuệ thứ 5, được
gọi là Bhanga-nana, Tuệ Diệt. Bhanga nghĩa là hoại diệt, tan ră.
Ở
giai đoạn
này, mỗi khi hành thiền,
dù với bất cứ đề mục nào, thậm chí đó là các cử động (không
c̣n chú tâm đến h́nh dáng nữa, mà chỉ chú ư đến các cảm giác), hành
giả hay biết được cảm giác và sự diệt rất nhanh, tiếp nối nhau rất
rơ. Mọi h́nh dáng và thể khối đều biến mất, điều đó nghĩa là bạn
không c̣n chú tâm đến h́nh dáng và thể khối nữa. Bạn chỉ chú ư đến
các cảm giác và sự
hoại diệt
rất nhanh
của chúng.
Thấy
đề mục diệt rất nhanh, đó là tuệ diệt đầu tiên, gọi là
pathama-bhanga-nana.
Thấy chính tuệ giác diệt đi là tuệ diệt thứ hai, gọi là
dutiya-bhanga-nana.
Hai mức tuệ giác này đi cùng nhau tạo thành Tuệ Diệt (bhanga-nana)
hoàn chỉnh. Trong bất cứ tầng tuệ nào cũng có giai đoạn sơ khởi và
giai đoạn chín muồi. Lúc đầu bạn thấy đề mục diệt đi rất
nhanh. Khi
tuệ giác
này trở
nên chín muồi và
mạnh hơn, bạn thấy được sự diệt của tâm, tâm thiền
Vipassana và tuệ giác cũng cùng diệt.
Bạn nhận biết một đề mục,
nó diệt mất và tâm hay biết sự diệt đó cũng diệt. Diệt không có
nghĩa là chuyển sang
một dạng
tồn tại
khác; đây
là
điểm
tôi muốn
làm rơ.
Vô thường
(anicca) không
có nghĩa
là thay đổi
và tồn tại dưới một dạng khác. Vô thường nghĩa là diệt mất, không
c̣n ở đó nữa; là sự không tồn tại của hiện tượng. Hiện tượng sanh
diệt và không c̣n tồn tại dưới bất kỳ h́nh thức nào.
Trong vật lư lượng tử về các hạt hạ nguyên tử, bạn có thể hiểu được điều
này. Không h́nh dạng, không dáng h́nh, chỉ là năng lượng. Robert
Oppenheimer nói, nếu bạn hỏi: “Hạt điện tử có ở nguyên một vị trí
không?”. Câu
trả lời là không. Vậy nó thay đổi? Câu trả lời vẫn là không. Nó có trụ ở
đâu đó
không? Câu
trả lời
là
không. Vậy nó chuyển động? Câu trả lời vẫn là không. Một hạt điện tử chỉ
là một mô h́nh lư thuyết; một cái ǵ đó biến mất và một cái ǵ đó
sanh ra. Có mối liên hệ giữa chúng với nhau, nhưng chúng phải cùng
là một thứ.
Có rất nhiều từ Pali để
giải thích Tuệ Diệt này. Khaya là một cái ǵ đi đến
kết thúc, cạn kiệt. Vaya
cũng có nghĩa y hệt;
bheda
có cùng một nghĩa là hoại diệt;
nirodha là
đi đến chấm dứt. Tất cả các từ này đều có cùng một nghĩa. Câu kinh
Pali: “khayato vayato disva ~Vsm 641”, nghĩa là thấy nó không c̣n tồn tại nữa. Nó
tồn tại trong một khoảng thời gian rất ngắn ngủi, chỉ thế thôi, rồi
không c̣n nữa.
Bạn có thể thấy được điều này ở tất cả 6 căn môn (drava): mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ư. Ở tất cả 6 căn môn, bất cứ điều ǵ bạn
nhận biết, bạn chỉ nhận biết nó một cách thuần túy và nó sẽ không
c̣n tại đó nữa. Bạn có thể thấy điều này ở tất cả các căn, chứ không
phải chỉ ở một căn nhất định nào.
Như vậy, đề mục diệt mất và
tâm thiền (Vipassana) hay biết đề mục ấy cũng diệt, một tâm
khác hay biết chính tâm thiền đó cũng diệt mất.
Thấy đề mục thứ nhất diệt và thấy tâm hay biết lúc đó đă trở thành đề
mục cho một
tâm khác
(purimavatthuto
annavatthusankamana),
chính tâm ấy cũng diệt. Bạn có thể thấy được nhiều tầng lớp, nhiều
lần như vậy. Nhưng cũng không cần thiết phải thấy nhiều lần
đến thế. Tuy
nhiên, ít
nhất bạn
cũng phải thấy được đề mục diệt và tâm tuệ minh sát cũng
diệt. Thực ra chỉ cần thế là đủ, song có thể sẽ tiếp diễn nhiều lần
như vậy.
Hành giả thấy sự diệt rơ đến mức không cần chú ư đến sự sanh nữa. Ở tuệ
thứ tư, hành giả chú ư đến sự sanh diệt, ở tuệ thứ 5 vị ấy chỉ chú ư
đến sự diệt mà không c̣n chú ư đến sự sanh. Ngay từ lúc đầu thực
hành chúng ta chỉ thấy sự snh, không thấy được sự diệt. Trước
khi thấy
đề mục
diệt, chúng
ta
thấy đề mục khác đă sanh lên. Say một thời gian chúng ta sẽ thấy được sự
sanh và diệt. Sau đó chúng ta chỉ thấy diệt. Đó là cách thức tuệ
giác phát triển đến độ chín muồi.
Udayam
pahaya
vaye santitthana.
~PtsAi.258
Bỏ qua (pahaya) sự
sanh (udayam), tâm an trú (santitthana) trong sự diệt
(vaye). Tâm chỉ quán sát sự diệt. Điều đó làm cho hiểu biết
về vô thường trở nên rất vững mạnh. Đó chính là đỉnh cao của tri
kiến về vô thường.
Trong quá tŕnh thấy sự diệt, không có cái xen vào giữa. Tâm không bị
xao lăng, phân tán vào
bất cứ
thứ ǵ
khác;
ở
giai đoạn này có rất ít suy nghĩ. Ở tầng tuệ đầu tiên, hành giả suy nghĩ
một chút. Ở tầng tuệ thứ hai, hành giả suy nghĩ nhiều về nguyên nhân
của sự sanh, sự hay biết và sự suy nghĩ. Ở
tầng tuệ thứ ba c̣n nhiều suy nghĩ hơn nữa về thiền, về vô
thường, khổ, vô ngă. Ở tầng tuệ thứ tư các suy nghĩ bớt dần đi. Ở
tầng tuệ thứ 5, hầu như
không c̣n một chút suy nghĩ nào nữa. Bạn không thể nghĩ được nữa. Sự
diệt diễn ra rất nhanh, bạn không có thời gian để suy nghĩ về nó
nữa. Tiến tŕnh sẽ tiếp tục như thế cho đến khi đạt tới tầng tuệ thứ
9. Ở tầng tuệ thứ 8 và tầng tuệ thứ 9, một số suy nghĩ bắt đầu quay
trở lại,
nhưng đó
chỉ là
những suy
nghĩ
về Pháp, chứ không phải suy nghĩ chuyện đời.
Sau đây là một số ẩn dụ mô tả Tuệ
Diệt:
1)
Ném vài hạt
vừng vào trong một chảo sắt nóng đỏ, mỗi hạt vừng ném vào đều bị đốt
cháy và tạo ra một tiếng xèo rất ngắn.
2)
Mưa rơi trên
mặt hồ. Bạn thấy các hạt mưa rơi xuống rất nhanh.
Không phải khi hành thiền là bạn sẽ thấy các h́nh ảnh này. Chúng chỉ là
các ví
dụ. Khi
hạt mưa
rơi xuống
nước
sẽ tạo thành các bong bong, hiện lên và biến mất ngay lập tức.
Cũng không c̣n nhiều để nói
vê tuệ thứ 5 này nữa. Đó là tất cả. Bạn thấy mọi thứ diệt mất rất
nhanh. Và điều này diễn ra liên tu bất tận, không phải chỉ một thứ diệt rồi bạn
dừng lại và suy
nghĩ.
Bạn có thể thấy sự diệt trong hàng tiếng đồng hồ, lặp đi lặp lại như vậy
hoài. V́ thấy mọi thứ cứ diệt, biến mất liên tục nên bạn cảm thấy
tiến tŕnh này thật nguy hiểm; nó diệt mất quá nhanh, bạn không thể
nương tựa vào nó. Bạn không thể tự đồng hóa bản thân ḿnh với nó được
nữa. Bạn
thấy nó
là
nguy
hiểm nhưng bạn không sợ hăi nó. Không
sợ hăi là rất
quan trọng.
Khi bạn bắt đầu sợ, nỗi sợ quá lớn và bạn sẽ ngừng lại không
hành thiền nữa. Điều đó có nghĩa: đây là một tuệ giác, bởi v́ nỗi sợ
thực sự phải đến từ sự đồng hóa. Nếu không tự đồng hóa ḿnh với nó,
và bạn chỉ thấy mọi thứ diệt đi, không phải cá nhân người nào, khi
đó nó chẳng có liên quan ǵ với bạn cả. Bạn thấy không ai có thể tự
đồng hóa với nó, không thể bám víu, nương tựa vào nó. Không có chỗ
nào cho ḿnh dựa dẫm được. Không có điều ǵ là chắc chắn trong những
tiến tŕnh thân tâm này cả.
Việc nh́n
thấy nguy hiểm có đáng sợ không? Không, bởi sợ hăi là một loại tâm
sân, một loại phiền năo,
nó xuất phát từ sự tự đồng hóa.
Bạn thấy nó nguy hiểm, nhưng bạn không sợ nó.
Bỗng nhiên bạn nh́n thấy
một con hổ trong rừng chẳng hạn, bạn thực sự sợ hăi
và t́m đường thoát thân. Nhưng khi xem một bức tranh hổ trong
vườn thú, bạn biết con vật này nguy hiểm nhưng bạn không quan tâm
tới nó, không bỏ chạy.
Một số người khi cảm thấy
rất sợ, họ lại lầm tưởng nỗi sợ này là một loại tuệ giác.
Tuệ giác thực sự không có sợ
hăi. Người
trí thấy
trẻ con
chơi
đồ
nguy hiểm th́ nói: “Đừng chơi đồ ấy, nguy hiểm lắm” song bản thân người ấy th́ không sợ hăi.
Tuệ giác đó là tuệ thứ 6,
bhaya-nana- Tuệ thấy nguy hiểm (Kinh úy tuệ), “thấy các hành
là nguy hiểm”, hành giả trở nên không thích thú, không vui mừng. Ở
tầng tuệ thứ tư bạn có rất nhiều
hỷ lạc, cảm
thấy rất
phấn chấn
và an lạc. Ở tầng tuệ thứ 6 không c̣n sự an lạc và hỷ tràn
ngập nữa. Đôi lúc bạn cảm thấy rất tĩnh lặng, không buồn chán, cũng
không phấn khởi. Khi Tuệ thấy nguy hiểm “thấy tiến tŕnh thân, tâm
là đáng sợ, là nguy hiểm” này đă chín muồi, nó chuyển sang thấy ra
những điều
khiếm khuyết,
bất
toàn.
Thực ra chỉ là cùng một việc, song được nh́n từ một góc độ khác mà thôi.
Khiếm khuyết, bất toàn
trong tiếng Pali là
adinava. Bạn thấy rơ không có ǵ tốt đẹp trong tiến tŕnh thân,
tâm này cả, nó không thể làm cho bạn hạnh phúc.
Ở giai đoạn này hành giả có thể thấy, trước kia cũng như bây
giờ, mọi thứ đều đi đến hoại diệt. Tương lai cũng sẽ như thế, dù cái
ǵ xảy ra, một cuộc đời tốt đẹp, cao sang hay xấu xa, thấp kém, tất
cả rồi sẽ hoại diệt, cũng như nó đang diễn ra bây giờ. Vậy th́ chẳng
nên mong mỏi có được một cuộc sống tốt đẹp hơn làm ǵ.
Nói chung
mọi người thường nghĩ nếu được tái sanh vào một nơi tốt đẹp hơn th́
hay biết mấy. Song nếu bạn
thực sự thấy rơ ràng và cặn kẽ tiến tŕnh thân và tâm
đang luôn hoại diệt này,
bạn sẽ
hiểu ra
rằng: “Để
làm ǵ? Mọi thứ
đều hoại diệt quá nhanh, ham muốn này nọ
có ư nghĩa ǵ nữa
đâu”.
Lúc đó bạn không c̣n mong
muốn bất cứ một kiếp sống, một cảnh giới nào nữa. Nhưng nếu đánh mất
tuệ giác này th́ bạn
vẫn c̣n
mong muốn.
Thời điểm bạn có
được tuệ giác này, bạn có thể thấy rằng không có cái ǵ đáng để sở
hữu cả, bạn không thể sở hữu được bất cứ cái ǵ.
Mỗi khi hành giả nhận biết, nó liền diệt mất; không dính mắc, không mong
muốn níu giữ nó. Hành giả thấy rằng sanh
là nguy
hiểm (upapado
bhayam ~Pts
i.59). Sự trở thành, sự hiện hữu là nguy hiểm. Sự tiếp diễn là
nguy hiểm (pavattam bhayam ~Pts i.59). Bất cứ cái ǵ
đang diễn ra cũng đều là nguy hiểm. Ngay cả ư nghĩ rằng: có một thứ
ǵ đó sẽ đem lại hạnh phúc cho ḿnh, để rồi cố gắng đạt được nó – đó
cũng là một điều nguy hiểm (ayuhana bhayam
~Pts i.59). Đôi khi có những suy nghĩ rất ngắn
chợt đến, trong một thoáng hành giả chợt hiểu được
lời dạy
của Đức
Phật, nếu
đă từng đọc
trước đó.
Những câu
kệ, lời
kinh rất ngắn chợt hiện đến
trong tâm. Có lần, đang ngồi thiền, đột nhiên tôi thấy đoạn cuối
Thập Nhị Nhân Duyên (paticcamuppada) tự động hiện lên trong
tâm. Lúc đó bạn không hề suy nghĩ về nó, song lại hiểu được ư nghĩa
của nó một cách rất sâu sắc và rất rộng. Câu kinh hiện lên trong tâm
tôi lúc đó là:
“Evametasa
kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti” và
“Evametassa
kevalassa
dukkakkhandhassa
nirodho hoti”.
Evametassa
là
theo
cách này.
Kevalassa là một từ
rất quan trọng,
nghĩa là không trộn lẫn, đồng hóa
với bất
cứ
cái
ǵ. Dukkhakkhandhassa
nghĩa là một đống đau khổ chồng chất.
Nghĩa là
“Chỉ là một đống khổ đau sanh khởi, không đồng hóa, trộn lẫn cùng một chúng sanh nào, nó không phải là hạnh phúc, an
lạc”. Không trộn lẫn, đồng hóa là rất quan trọng. Cái sanh lên đó
chỉ thuần túy là đau khổ, và cái diệt mất dó cũng chỉ thuần túy là
đau khổ mà thôi. Không phải một người nào, không có ǵ vui thích,
chỉ là đau khổ.
Tiến tŕnh
này quả là không đáng hài ḷng, sanh và diệt.
Bạn không c̣n thấy nó là tôi hay của tôi nữa, nó không phải là một người
hay một thực thể
nào cả,
chỉ thuần
túy
là một tiến tŕnh. Bạn không có quyền làm chủ đối với nó; không thể ra
lệnh cho nó “đừng diễn ra nữa”. Mọi việc đều diễn ra thuận theo nhân
duyên của nó. Người đa văn, học nhiều sẽ nhớ được rất nhiều điều như
vậy.
Không sanh là nơi an toàn (Anuppado khemam~Pts i.59). Nếu
không có ǵ diễn ra cả th́ thật an toàn biết bao. Cái ǵ có sanh, ắt có diệt.
Không có ǵ là an toàn cả.
Khemam cũng có nghĩa là Niết Bàn. Một điều rất khó để hiểu được, đó
là: “không sanh là cực lạc” (Anuppado sukham~Pts i.59).
Hầu hết mọi người đều cho
rằng hạnh phúc
là có
cái để
hưởng thụ.
C̣n
ở
đây, hạnh phúc nghĩa là không đau
khổ. V́ vậy, trong Tứ diệu đế chỉ có Khổ đế chứ không có Lạc
đế.
Mỗi đế đều có một chữ khổ
trong đó (Khổ đế, Tập đế, Đạo đế, Diệt đế). Không hề có lạc đế. Song
lạc chính là không khổ. Khi không c̣n khổ đau, th́ đó chính là nơi
hạnh phúc, an vui nhất.
Anuppado
nibbanam.
~Pts
i.60
Vô sanh là
Niết
Bàn.
---o0o---
Phần
2: Từ
tuệ thứ
năm đến
tuệ thứ mười:
Từ
Tuệ Diệt đến Tuệ Thấy Nguy Hiểm, Tuệ Kinh sợ, Tuệ Yếm
ly,
Tuệ
Muốn Giải
thoát và
Tuệ Giản
trạch.
Trong tầng tuệ này, có lúc
một ư nghĩ rất ngắn nào đó
sẽ chợt thoáng qua, như là “không có ǵ là ổn định cả
(cala)”, “mọi
thứ đều
chuyển dịch, xáo động và
không kéo
dài”, những
ư nghĩ như vậy sẽ khởi lên trong tâm. “Không có cốt lơi nào
trường tồn trong đó (asaraka)”, “mọi thứ đều không có thực thể”. Đôi
khi cũng có cả ư nghĩ như thế này (sankhata) “mọi thứ sanh khởi bởi
v́ có đủ nhân duyên khiến
nó sanh”. Những ư tưởng
rất ngắn ngủi, thoáng qua như vậy sẽ đến… Đôi khi hành giả cảm thấy
sự sanh diệt liên tục thật là bức
bách, như một
sự tra
tấn,
không
có điểm dừng. Giống như
người có phát ra một âm thanh chói tai kéo dài;
sau một lúc âm thanh đó trở
nên rất khó chịu, như một sự tra tấn.
Khi đă thấy được sự khiếm
khuyết của sự sanh và diệt này, hành giả bước vào tuệ giác tiếp
theo. Tuệ Yếm ly-Nibbida nana, trí tuệ yếm ly, nhàm chán,
không c̣n thích thú tham đắm bất cứ thứ ǵ. Xét về một mặt nào đó,
yếm ly (nibbida) có nghĩa là chán ngán, không phải là chán
hành thiền, mà với nghĩa là hành giả thấy sự sanh diệt… sanh và diệt
liên tu bất tận, “không có ǵ là đáng thích thú cả”, một sự việc y
hệt lặp đi lặp lại hoài, không bao giờ chấm dứt. Hành giả thấy không
có ǵ là vui thú ở đây
cả. Ở
giai đoạn
đầu thiền
tập,
hành giả cảm thấy rất an lạc, chứng nghiệm hiều trạng thái hỷ lạc, niềm
vui và sự yên b́nh, thanh thản.
Ở giai đoạn này, mặc dù tâm tĩnh lặng song không c̣n những cảm giác như
vậy nữa. Bạn thấy tất cả mọi thứ đều biến diệt. Tâm bạn trở nên nhàm
chán và không muốn nghĩ đến bất cứ điều ǵ nữa. Khi mới hành thiền
th́ bạn muốn nghĩ. Thậm
chí suy nghĩ c̣n trở
nên rất thú vị nữa. Bạn có thể tư
duy rất tốt, rất
hiệu quả. Nhưng đến giai đoạn này, khi có suy nghĩ và bạn quan sát
sự suy nghĩ đó, nó liền
biến mất, bạn bị buông rơi vào một trạng thái trống rỗng. Không c̣n
một suy nghĩ nào nữa. Ngay cả suy nghĩ cũng là một việc đáng
nhàm chán.
Nó không
c̣n thú
vị
cũng chẳng mang lại niềm
hứng khởi, thích thú ǵ nữa. Một số người đă diễn tả trạng thái này
như sau: “Tôi không c̣n muốn suy nghĩ đến bất cứ điều ǵ nữa. Tại sao
phải suy nghĩ làm ǵ? Không cần thiết phải làm như thế. Trước nay
chúng ta đă suy nghĩ quá
nhiều”.
Ngay cả suy nghĩ
về Pháp cũng là
một loại đau khổ.
Ở giai đoạn này, hành giả
sẽ hiểu được điều này từ một bài kệ như sau:
Sabbe sankhara anicca
ti, Yada pannaya passati, Atha nibbindati dukkhe,
Esa
maggo
visuddhiya
~Dhpd
277
Sabbe
sankhara anicca
ti: Sankhara
nghĩa
là hành, là
bất cứ cái
ǵ được cấu tạo bởi nhân duyên, bất cứ thể loại hiện tượng
nào, đều được gọi
là hành. Sabbe sankhara anicca
là tất cả các hành là vô thường.
Yada pannaya passati:
khi thấy
được điều này bằng trí tuệ.
Atha nibbindati dukkhe:
Hành giả trở nên
yếm ly, nhàm chán với đau khổ.
Esa
maggo visuddhiya:
Đây chính
là con
đường
thanh
tịnh.
Bởi
v́
bạn
không c̣n dính mắc với chúng nữa, bạn không c̣n buồn khổ, thất vọng v́
chúng nữa, do đó bạn đă hoàn toàn buông bỏ.
Sabbe sankhara dukkha
ti, Yada pannaya passati, Atha nibbindati dukkhe,
Esa
maggo
visuddhiya.
~Dhpd
278
Bài kệ đầu
(Dhpd.277) nói về vô thường, bài kệ thứ hai
(Dhpd.278) nói về khổ, nghĩa của chúng cũng gần tương tự như nhau. Nhưng bài kệ
thứ ba này mới thật là quan trọng:
Sabbe dhamma anatta
ti,Yada pannaya passati, Atha
nibbindati dukkhe,
Esa
maggo
visuddhiya.~Dhpd
279
Hai bài kệ đầu, bạn thấy là
tất cả các hành là vô thường, tất cả các hành là khổ (Sabbe
sankhara anicca, sabbe sankhara dukkha), song bài kệ thứ ba th́
nói tất cả các pháp là vô ngă (sabbe dhamma anatta). Ở đây
pháp (dhamma) là tất cả mọi cái hiện hữu.
Có một số người tôi đă từng gặp, họ lư luận rằng: Đức Phật nói ngũ uẩn
này là vô ngă, nhưng Ngài không nói rằng không có một cái ngă (hay
linh hồn) nào cả.
Họ tới
hỏi tôi:
Đức Phật
nói
ngũ uẩn này là vô ngă, như vậy c̣n có một cái là ngă, điều mà Đức Phật
không phủ nhận, có phải vậy không? Tôi trả lời: “Không phải vậy”.
Đức Phật nói rằng
sabbe
dhamma anatta, tất cả mọi thứ, mọi khái niệm, ngay cả Niết Bàn
nữa, cũng đều vô ngă,
không loại
trừ một
pháp nào.
Chữ Dhamma-Pháp
bao hàm tất cả mọi thứ, không loại trừ một cái ǵ. Tất cả đều là
Pháp. Không có một cái ǵ có thể gọi là ngă cả. Chính v́ vậy, bài kệ
này có ư nghĩa rất quan trọng.
Bhayatupatthanam ekameva tini namani labhati.
~Vsm
651
Tuệ Thấy Nguy Hiểm (bhaya-nana,
hay c̣n gọi là Kinh úy Tuệ), Tuệ Kinh sợ (adinava-nana, hay
Quá hoạn Tuệ) và Tuệ Yếm ly (nibbida-nana) – ba tuệ này thực
chất chỉ là một (ekameva), song được mang (labhati) ba
tên gọi khác nhau (tini namani).
Ya ca bhayatupatthane panna
yan ca adinave nanam ya ca nibbida,
ime dhamma ekattha, byanjanam eva nanam.
~Pts ii.63
Khi bạn thấy nó là nguy
hiểm (ya ca bhayatupatthane panna), khi bạn thấy sự khiếm
khuyết, bất toàn của nó (yan ca
adinave nanam),
thấy nó
thật
nhàm
chán (ya ca nibbida),
tất cả những điều này
thực chất
chỉ là một (,
ime dhamma ekattha),
được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau (byanjanam eva nanam).
Như vậy sẽ có nhiều tên gọi
khác nhau cho một tuệ giác. Bạn có thể thấy tuệ giác này từ 3 góc độ khác nhau: nguy hiểm,
khiếm khuyết, không có ǵ đáng vui thích.
Sau khi đă thấy mọi thứ đều
là nguy hiểm, mọi sự sanh diệt là khiếm khuyết, bất toàn, tất cả đều
không đáng vui thích, hành giả muốn được thoát ly khỏi tất thảy
những điều này và cảm thấy hết sức nhàm chán, mệt mỏi với
chúng.
Đây
được
gọi
là muncitukamyata,
“Tuệ Muốn Giải Thoát” (Dục thoát tuệ). Đây là tầng tuệ tiếp
theo. Quán sát
thân này,
toàn bộ
cả
5 uẩn này, hành giả thấy nó
không đáng để dính mắc, chấp thủ vào bất cứ uẩn nào.
Hành giả muốn giải thoát khỏi tất
cả các hành, muốn vượt ra khỏi chúng. Khi bạn cảm thấy không an lạc
ở một nơi nào đó chẳng hạn, bạn sẽ nghĩ đến việc đi khỏi nơi đó, t́m
kiếm một nơi chốn an b́nh, hạnh phúc hơn. Bạn
không thể
t́m thấy
bất cứ
sự an
lạc nào trong 5 uẩn này, bạn muốn giải thoát khỏi chúng. Đôi
khi bạn c̣n thấy ngay cả việc hay biết cũng rất mệt mỏi…, nhận biết,
… quán sát…, hành thiền… Những việc đó thật là mệt
mỏi.
Hăy xem bạn đă tiến bộ đến mức nào! Lúc đầu bạn c̣n ham thích, đắm say
trong các thú vui ngũ dục. Khi bắt tay hành thiền, bạn muốn từ bỏ
các thú vui này. Nhưng khi đă hành thiền, bạn trở nên tĩnh lặng, an
lạc và hạnh phúc và rồi bạn lại dính mắc vào những trạng thái an lạc
đó.
Song khi đă đạt đến giai
đoạn này th́ ngay cả thiền
cũng không làm bạn dính mắc nữa.
Ngay cả thiền cũng
trở nên thật nhàm chán.
Bạn muốn giải thoát khỏi cả nó nữa.
Điều đó cũng đúng, như thế là tốt.
Bạn muốn giải
thoát khỏi đề mục thiền, và
thoát ly khỏi tâm thiền; bạn muốn thoát ra khỏi cả hai. Bạn muốn
thoát ra khỏi đề mục và tâm chánh niệm đang hành thiền. Điều đó có
nghĩa là bạn không muốn nhận biết thêm bất cứ thứ ǵ nữa.
Trong một số trường hợp, hành giả
cảm thấy quá chán ngán việc quan sát sự sanh diệt, đến mức
cho rằng tốt hơn hết là không quan sát nữa. Họ ngừng lại không quan
sát, không chú ư đến nó.
Có lúc tâm trở nên trống rỗng, không bị xao lăng đến bất cứ đối
tượng nào nữa, bởi v́ hành giả đă quá nhàm chán đến nỗi không thể có
hứng thú với
bất cứ
đối tượng
nào. Nếu
hành
giả
ngưng hành thiền, tâm vẫn tĩnh lặng nhưng sẽ không
c̣n thấy
sanh diệt
nữa. Hành giả thấy như vậy lại tốt hơn, an lạc hơn và thú vị
hơn.
Tâm vẫn tĩnh lặng, sống
trong khoảng trống rỗng
đó. Tuy nhiên,
nếu ở trong trạng thái đó lâu,
hành giả sẽ mất đi sự sáng suốt và rồi rơi trở lại địa ngục,
không có lối thoát. Ngừng hành thiền không phải là một lối
thoát.
Hành giả tiếp tục chú tâm
lại, tiếp tục thấy
tất cả
mọi thứ
chỉ tồn
tại trong
một sát na
ngắn ngủi. Nó chỉ tồn tại giữa khoảng
sanh và diệt,
quá ngắn
ngủi;
đó
chỉ là một tiến tŕnh khiến cho mọi thứ có vẻ như trường tồn.
Khi
bạn xem phim, trong mỗi giây máy chiếu lên
màn h́nh khoảng 20 bức h́nh. Màn h́nh tắt đi 20 lần trong mỗi giây,
song bạn không hề thấy được khoảng tối, bởi v́ mắt bạn không thể
phát hiện nhanh đến vậy. Khi ta nh́n thấy một người đang di chuyển,
thực ra không có sự di chuyển nào cả, chỉ là những h́nh ảnh tiếp nối
nhau xuất hiện, chúng chỉ khác nhau tí chút. Bởi v́ chúng ta không thấy
được khoảng trống giữa hai h́nh, nên thấy chỉ như là cùng một người
đang đi. Chỉ trong một khoảnh
khắc rất
ngắn ngủi,
một
h́nh
ảnh xuất hiện rồi biến mất, rồi lại một h́nh ảnh khác xuất hiện.
Trong thiền, bạn có thể
nh́n được nhiều như vậy, bởi bạn có thể thấy được
20 h́nh
biến mất
trong mỗi
giây. Đối với một hành giả có tâm định th́ mỗi giây là một
khoảng thời gian rất dài. Thời gian bị biến dạng đi rất
nhiều.
Thông
thường, chúng
ta có vithi-
citta (tâm tiến
tŕnh) và bhavanga-
citta (tâm hữu phần).
Vithi-citta là tâm
quan sát bất cứ những ǵ đang diễn ra ở đây và bây giờ. Ḍng tâm hữu
phần là một trạng thái tâm nền, nó không có đề mục
có thể
nhận biết
rơ ràng;
nó
chỉ
duy tŕ sanh mạng và sự liên tục của ḍng tâm thức mà không có một đề
mục hiện tại nào cả. Thông thường con người có khoảng trống này rất
rộng, trong thời gian dài, quá tŕnh duy tŕ tâm này được gọi là
ḍng hữu phần. Một tâm sanh khởi và diệt mất, nhận biết bất cứ cái
ǵ đang diễn ra hay suy nghĩ về một việc ǵ đó, rồi cách quăng một
đoạn, rồi một tâm khác lại sanh lên, diệt đi – trong tiến tŕnh đó
chánh niệm về một đối tượng hoặc một suy nghĩ nào đó và rồi lại đến
một khoảng trống nữa. Thông thường mọi người điều có một khoảng cách
quăng khá rộng. Khoảng cách này càng lớn th́ chúng ta biết
càng ít, càng đăng trí, thất niệm nhiều. Càng hành
thiền, tâm chúng ta càng sắc bén hơn
và khoảng cách quăng này
càng hẹp lại.
Như vậy
trong cùng một tiến
tŕnh thời gian, chúng ta
có chánh niệm nhiều hơn;
chánh niệm được nén lại vào trong khoảng thời gian này.
Chẳng hạn, lúc đầy mỗi giây chúng ta chú tâm vào một sát na chánh niệm,
sau một thời gian tăng lên 5, 10, 15, 20… Càng chánh niệm,
bạn càng cảm thấy thời gian như dài thêm. Thời gian là ǵ? Thời gian
chỉ là một tư tưởng. Khi bạn hoàn toàn không ư thức được điều
ǵ đang
diễn ra,
hoàn toàn
không
có ư thức, lúc đó tâm bạn không biết được thời gian.
Trong tầng tuệ này, có lúc
một ư nghĩ rất ngắn nào đó sẽ chợt thoáng qua, như là “không có ǵ
là ổn định cả (cala)”, “mọi thứ đều chuyển dịch, xáo động và
không kéo dài”, những ư nghĩ như vậy sẽ khởi lên trong tâm. “Không
có cốt lơi nào trường tồn trong đó (asaraka)”, “mọi thứ đều
không có thực thể”. Đôi khi cũng có cả ư nghĩ như thế này (sankhata)
“mọi thứ sanh khởi bởi v́ có đủ nhân duyên khiến nó sanh”. Những ư
tưởng rất ngắn ngủi, thoáng qua như vậy sẽ đến… Đôi khi hành giả cảm
thấy sự sanh diệt liên tục thật
là bức
bách, như
một sự
tra
tấn,
không có điểm dừng. Giống như người có phát ra một âm thanh chói tai kéo
dài; sau một lúc âm thanh đó trở nên
rất khó chịu, như một sự tra tấn. Hành giả quan sát sự sanh
diệt quá lâu đến mức cảm thấy ḿnh bị mắc kẹt trong đó… đây chỉ là
một cái bẫy, một sự tra tấn. Đôi khi điều này đến mức không thể chịu
đựng nổi. Đối tượng này là đau khổ. Sự sanh diệt này thật sự là
đau khổ. Phải quan sát sự sanh diệt cũng là đau khổ.
Đôi khi bạn thấy cuộc sống
này là một căn bệnh kinh niên; nó cứ tiếp diễn hoài, dù bạn vẫn nghĩ
là ḿnh mạnh khỏe,
nhưng nó
vẫn luôn
sanh
diệt.
Đừng nghĩ ngợi quá nhiều về nó, nếu không bạn sẽ bị rơi vào trầm cảm.
Những tư tưởng thoáng qua
đến một cách tự nhiên; hăy nhận biết chúng rồi xả bỏ. Đừng dừng lại
và suy nghĩ quá nhiều. Nếu dừng lại để suy nghĩ, bạn sẽ nghĩ rất
hay, bởi v́ tâm không bị xao lăng nữa; bạn có thể viết sách về Phật
Pháp được nữa. Nhưng đừng ngừng lại và nghĩ ngợi. Nếu nghĩ quá
nhiều, bạn sẽ bị trầm cảm.
Khi suy
nghĩ là bạn đă tự đồng hóa. Suy nghĩ làm cho bạn có cảm tưởng rằng
BẠN đang suy nghĩ. Suy
nghĩ làm cho bạn cảm thấy có sự liên tục,
bởi suy nghĩ sẽ kết nối mọi
việc. Không suy nghĩ, sẽ không có sự liên kết giữa việc này với việc
kia.
Khi suy nghĩ là bạn kết nối
sự việc lại với nhau. Suy nghĩ là thứ làm cho chúng ta cảm thấy
dường như có sự liên tục và liên kết. Không suy nghĩ th́ không có sự
kết nối, không có sự liên tục; chỉ có cái ǵ đó đang sanh diệt, chỉ
như vậy thôi, không có ư nghĩa ǵ khác.
Có lúc bạn nghĩ sự sanh
diệt này giống như một cái gai trong bắp thịt ḿnh. Đôi
khi bạn
lại có cảm
tưởng rằng
cuộc sống là một căn bệnh. Khi nói về trạng thái
của tầng
tuệ này,
nó có
vẻ như
rất
tiêu cực và bi quan. Bạn thấy nó như một nỗi nguy hiểm không được cảnh
báo trước. Nó giống như một trái bom nổ chậm. Bạn có thể chết bất cứ
lúc
nào.
Mọi việc đều có thể xảy ra
vào bất cứ lúc nào;
cuộc
đời này thật khó đoán định.
Tiến tŕnh này không phải là nơi bạn t́m đến trú ẩn và được
an toàn (atana). Không phải là nơi nương nhờ và trú ẩn.
Đó là những loại suy nghĩ thoáng qua sẽ đến với
bạn.
Khi người ta dính mắc vào những đối tượng này - chúng chính là những đối
tượng của sự dính
mắc –
chúng sẽ
làm
tâm bạn ô nhiễm. Bạn có thể thấy rơ chúng chính là những đối tượng của
phiền năo. Ngay cả trong giai đoạn
này, bạn cũng có thấy rơ được đặc tướng khổ, song nó khác với
loại khổ mà bạn chứng nghiệm trong giai đoạn đầu thực hành. Trong
giai đoạn đầu, bạn không thấy được khổ là trong mỗi sát na sanh
diệt. Tuy nhiên, đến giai đoạn này, bất cứ cái ǵ sanh diệt bạn đều
thấy nó là khổ, không đáng hài ḷng, song bạn thấy nó như từng sự
việc tiếp nối nhau, rất rơ ràng.
Tất cả các tuệ minh sát (vipassana-
nana) thực chất chỉ là vô thường,
khổ và vô ngă. Nói một cách
ngắn gọn về
tuệ minh
sát th́
chỉ có
ba.
Thâm chí bạn c̣n có thể gộp
chúng vào một tuệ duy nhất:
tất cả chỉ là sanh diệt. Đây là cách chúng ta diễn giải chi
tiết. C̣n thực chất tầng
tuệ nào cũng là vô thường, khổ, vô ngă
cả.
Thậm chí, ngay cả sau tầng
đạo quả đầu tiên, bạn sẽ lại chứng nghiệm cùng một sự việc như vậy
nhưng một cách sâu sắc hơn. Đôi khi bạn thấy tiến tŕnh này không
thuộc về một người nào; không ai sở hữu nó. Những tiến tŕnh này
không có chủ sở hữu. Bạn chú ư vào cái nghe, nó sanh lên và diệt
mất. Bạn biết ḿnh không sở hữu được cái nghe này, nó đă biến mất.
Chúng ta nghĩ rằng cái thân
này là
của tôi
(cảm
giác sở hữu), có một “cái
tôi” ở đó. Ở tầng tuệ này, bạn có thể thấy rằng không có ai sở hữu
những tiến tŕnh tự nhiên này cả. Bạn cũng nhận ra ḿnh không thể ra
lệnh cho nó được. Bạn không thể bảo nó: “Phải diễn ra như thế
này, đừng xảy ra như thế kia; ở lại đó và không được đến nữa”.
Không có chủ sở hữu. Bạn
cũng thấy chúng trống rỗng,
không có tự ngă, không có linh hồn, không phải đàn ông, đàn
bà. Vô thường, khổ, vô ngă
có nhiều góc độ khác nhau.
Mặc dù có lúc hành giả cảm thấy muốn ngừng hành thiền, “Có ích lợi ǵ
khi nh́n những thứ này,
chúng thật
khổ
năo, không đáng hài ḷng? Sao cứ phải nh́n chúng hoài như vậy”. Nhưng
sau đó hành giả sẽ hiểu rằng dừng lại không phải là một giải pháp.
Tốt hơn cả là tiếp tục tiến lên, tiếp tục nhận
biết, không c̣n con đường nào khác.
Đối với một số người, cần phải mất một thời gian khá lâu để phát triển
mỗi tầng tuệ giác. Đối với một số khác th́ chỉ cần một khoảnh khắc
ngắn ngủi, có khi chỉ trong mấy phút, mấy giờ hoặc mấy ngày là được.
Một số phải mất vài tháng. Điều đó c̣n tùy thuộc vào động cơ của mỗi
người. Nếu bạn nghĩ rằng ḿnh có nhiều thời gian và muốn thẩm nhiệm
mỗi tầng tuệ một cách từ từ và kỹ
lưỡng, th́
có thể mất
một thời
gian
khá lâu. Nếu không muốn làm như thế, bạn có thể chú tâm nhiều hơn và đẩy
nhanh tốc độ quá tŕnh đó lên.
Đôi
khi, trong
giai đoạn
này, hành
giả bắt đầu nghĩ: “pháp hành của tôi không c̣n tốt đẹp như trước nữa”. Điều này rất
nguy hiểm. Họ cảm thấy
không hài ḷng về sự thực hành của
ḿnh.
Thực ra họ không hài ḷng về chính tiến tŕnh đó, nhưng sự bất măn này
lại chuyển sang một đối tượng khác, họ nghĩ: “Trước đây tôi hành
thiền rất tốt, nhưng bây giờ lại không được như vậy nữa; tôi không
thấy mọi thứ rơ ràng như
trước nữa”.
Bởi v́
khi mọi
thứ
chuyển dịch chậm,
nó trụ lại
lâu hơn và bạn có thể thấy chúng rất rơ. Nhưng ở giai đoạn này, mọi
thứ đều biến dịch quá nhanh đến nỗi bạn không biết phải làm ǵ nữa.
Thậm chí bạn không thể thấy được nó nữa, bởi v́ nó cứ biến mất… biến
mất, rất nhanh. Mọi thứ không c̣n hứng thú ǵ nữa. Ở tầng tuệ thứ tư
này, mọi việc đều rất hứng thú đối với bạn. Nhưng giờ đây chúng
không c̣n như vậy nữa. Chúng trở nên nhàm chán và đơn điệu.
Hăy cẩn thận; khi nhàm
chán, bạn hăy tự nhắc nhở ḿnh rằng: “mọi việc đang tiến triển tốt đẹp”.
Một số người dừng lại và bỏ
cuộc. Nhiều thiền sư nói:
“Thật đáng tiếc! Đáng buồn thay. Họ cần phải tiếp tục hành thiền,
rồi sau đó sẽ có bước đột phá. Nhưng họ lại dừng lại và bỏ cuộc, họ
chán nản và mất hết mọi hứng
thú”.
Đừng chán nản, hăy tiếp tục
tiến lên! Đây chính
là tuệ
thứ 10:
Patisankha-
nana
Bhanga-nana
–
Tuệ
Diệt.
Bhaya-nana – Tuệ Thấy
Nguy hiểm. Adinava-nana
– Tuệ Thấy
Khiếm khuyết, bất toàn.
Nibbida-nana – Tuệ
Chán nản.
Muncitukamyata-nana –
Tuệ
Muốn Giải thoát.
Patisankha-nana –
Tuệ Giản trạch, quay lại với thiền tập.
Nếu muốn giải thoát th́ bạn không thể chạy trốn, v́ vậy hăy quay lại
hành thiền.
Tuệ tiếp theo sẽ là Tuệ Xả
hành (sankharupekkha-nana), tuệ này rất thâm sâu, rất quan
trọng và thú vị. Sau tuệ thứ 11, c̣n một số tầng tuệ khác nữa nhưng
chúng chỉ diễn ra trong ṿng nửa giây đồng hồ, do đó bạn không thể
làm được ǵ với chúng cả. Sau tuệ thứ 11, sẽ không c̣n đường quay
trở lại nữa, mọi việc sẽ tiến triển rất nhanh chóng
---o0o---
Phần
3: Từ
tuệ thứ
năm đến
tuệ thứ mười: Từ
Tuệ Diệt đến Tuệ Thấy
Nguy
Hiểm, Tuệ
Kinh sợ,
Tuệ Yếm
ly, Tuệ Muốn Giải thoát và Tuệ Giản
trạch.
Suy nghĩ sẽ làm cho bạn tự
đồng hóa ḿnh với nó. Khi suy nghĩ sanh khởi, chỉ cần hay biết nó. Ở
giữa các tầng tuệ giác, những chớp suy nghĩ vẫn xuất hiện, chúng rất
rơ. Bạn không cố ư suy nghĩ. Quá tŕnh khái niệm hóa cũng là một
chức năng của tâm. Nó xảy ra một cách tự nhiên. Trong bất cứ tầng
tuệ nào cũng đều có những chớp suy nghĩ sanh khởi. Xét về một mặt
nào đó, nó chỉ để làm rơ thêm
tuệ giác
đó. Nó
có lợi
ích
nhất
định, nhưng nếu suy nghĩ
quá nhiều th́ lại trở thành một trở ngại.
Hỏi & đáp:
Tôi rất đồng cảm với mọi người. Đôi khi tôi cũng rất buồn. Bạn chỉ
vượt qua được nỗi buồn khi đă trở thành một vị Thánh Anahàm (Anagami-bậc
Thánh Bất lai). Tôi chưa phải là bậc Thánh Anahàm. V́ vậy tôi vẫn
cảm nhận được nỗi buồn, nhưng
tôi biết rồi nó sẽ qua đi và không bị mắc kẹt trong đó. Tôi
không tức giận, mà chỉ cảm thấy rất buồn. Buồn cũng
là một loại tâm sân. Những người này đang t́m kiếm một điều
ǵ đó ngoài những thú vui dục lạc và tiền bạc. Họ có một ước muốn
rất tốt, rất đẹp và tôi cảm thấy buồn bởi v́ họ đă lăng phí cuộc
đời của
ḿnh; thật
là phí
phạm.
Nếu những người này nhận được sự hướng dẫn tốt, họ sẽ có thể học hỏi và
trưởng thành. Họ đă bỏ lỡ một cơ hội vô cùng quư giá. Tôi cũng nghĩ
có thể có rất nhiều người như họ nữa, họ t́m kiếm một điều ǵ đó về
tâm linh, t́m kiếm một sự giải thoát nào đó, nhưng lại không có một
người thầy tốt, không được sự hướng dẫn tốt. Sự kiện này chỉ là một
phần nổi của tảng băng ch́m.
Có thể nó sẽ c̣n tái diễn nữa. Cần phải làm một điều ǵ đó.
Tôi không nói rằng một người nào đó phải chịu trách nhiệm về việc
này, mà cả cộng đồng đều phải có trách nhiệm với nó.
Chúng ta không thể làm được điều ǵ cho
cả thế
giới này,
nhưng hăy
nghĩ
đến những việc chúng ta có thể làm được ở đây và bây giờ.
Chúng ta đă dạy bảo con cái
và bạn bè ḿnh những ǵ? Chỉ cho rằng đó là do nghiệp của họ th́
chẳng giải quyết được vấn đề ǵ cả. Chúng ta cần t́m ra một giải
pháp; điều đó có thể xảy ra đối với con cái, hoặc cháu chắt chúng ta sau này. Mọi người đang
bị mất phương hướng. Những người tự tử đó không phải là người nghèo.
Tôi được nghe khá nhiều về họ. Họ rất giàu có. Tại sao họ lại chết?
Tại sao họ lại tự tử? Tại sao thầy họ, người lănh đạo của họ lại bảo
họ tự tử và giúp họ chết như
vậy?
Hỏi & đáp:
Trong
Phật Pháp, việc đổ lỗi hoàn toàn cho nghiệp quá khứ không phải là
chánh kiến. Nếu nói chúng ta chẳng thể làm được ǵ, vậy sao c̣n cố
làm công việc này việc kia để làm ǵ! Nếu tôi nói rằng nghiệp của
tôi là sẽ được đắc đạo quả, vậy tôi c̣n phải đổ mồ hôi sôi nước mắt
hành thiền làm ǵ? Chúng
ta làm để cùng với sự hỗ trợ của nghiệp quá khứ và cái đang làm hiện
nay là nghiệp hiện tại, chúng ta sẽ thành đạt được một điều ǵ đó.
Ngay cả khi nghiệp quá khứ cho quả xấu, nếu chúng ta làm điều ǵ đó
bây giờ, nó có thể làm thay đổi được chiều hướng của nghiệp quá khứ
hoặc ngăn chặn nghiệp quá khứ cho quả. Chúng
ta cần
phải tin
tưởng vào
nghiệp
hiện tại ḿnh đang làm. Hoàn toàn quy thuận, phục tùng nghiệp quá khứ,
đó là một loại tà kiến (miccha-ditthi).
Đức Phật không dạy rằng chúng ta không thể làm được bất
cứ điều ǵ đối với
nghiệp.
Trong một số trường hợp,
khi có người vừa qua đời,
Đức Phật nói
rằng người đó
đă có đủ balamật quá khứ để đắc quả Alahán, nhưng ông ta không chịu
cố gắng. Nếu bạn không cố
gắng, điều đó sẽ không xảy ra.
Nghiệp quá khứ cộng với
nghiệp hiện tại là rất quan trọng. Dù bất cứ những ǵ đă xảy ra
trong quá khứ, đây là lúc bạn
cần một
người thầy
giỏi, bây
giờ
bạn cần phải thực hành. Cũng giống như việc điều khiển một chiếc máy
bay. Có rất nhiều lực tác động chẳng hạn như gió băo và nhiều sự
việc bất ngờ xảy ra, máy bay cũng có nguồn năng lượng riêng của nó.
Có thể một lúc nào đó, một động cơ ngừng hoạt động, người phi công
phải bay với một động cơ, phải tính toán đến sức gió và các
yếu tố
khác, luôn luôn phải cố
gắng điều chỉnh. Đấy cũng là điều chúng ta phải làm trong
cuộc đời của ḿnh. Chúng ta luôn luôn phải điều chỉnh. Chúng ta lèo
lái cuộc đời ḿnh đến đích. Chúng ta làm chủ được một phần nào đó,
có được một phần tự do nào
đó. Chúng ta cần phải hiểu điều này thật
rơ và
triệt để
tận dụng
nó.
Chúng
ta có thể định hướng cuộc đời ḿnh tới đích. Chúng ta phải hiểu thật
thấu đáo điều đó và phải làm hết khả năng của
ḿnh.
Sinh ra ở đây, chúng ta
không có quyền lựa chọn mẹ cha ḿnh, không thể lựa chọn màu da, dáng
vóc hay bất cứ điều ǵ, song chúng ta cũng có một số quyền
lựa chọn
nhất định.
Chúng ta có quyền lựa chọn tu dưỡng
các phẩm
chất của ḿnh.
Điều này rất đáng phấn khởi.
Nghiệp nằm ở trong tay chúng ta.
Chúng ta bị tác động bởi nghiệp quá khứ rất nhiều, tôi hiểu rất rơ điều
này, những việc
tôi làm
trong những
kiếp
trước tác động đến tôi rất nhiều, rất mạnh, hoặc theo chiều hướng tốt
hoặc theo chiều hướng xấu. Khi đă hiểu về nghiệp, tôi nghĩ: bây giờ
dù cho bất cứ việc ǵ xảy đến trong cuộc đời ḿnh th́ cũng hoàn toàn
OK, nó sẽ phải xảy ra như vậy, nhưng điều đó không có
nghĩa là
tôi không có quyền điều
khiển. Nó xảy ra, và cách hiểu của tôi về nó và đáp ứng lại
nó chính là nghiệp hiện tại của tôi. Hiểu và đáp ứng một cách thích
hợp là điều rất quan trọng, và điều đó nằm ở trong tay tôi. Nếu tôi
có được những người thầy giỏi, có được sự hướng dẫn tốt và nếu tôi
hiểu được mọi việc một cách thấu đáo, tôi có thể lèo láo, điều khiển
được cuộc đời
ḿnh. Điều
này rất
đáng phấn
khởi
và
đó cũng là một loại quyền năng của chúng ta.
Chúng ta
không hoàn toàn bất lực; nếu tu tập chánh niệm và trí tuệ,
chúng ta
sẽ có rất nhiều sức mạnh. Không nhất thiết phải thất vọng và từ bỏ.
Đừng
bao giờ
bỏ cuộc
cả!
Khi c̣n trẻ, tôi đă từng
phải gánh chịu rất
nhiều bất
hạnh. Tôi
có một
thời niên thiếu thật đau khổ, và không chỉ thời niên thiếu mà đến
cả ở cuối những năm 20 tuổi, tôi phải trải qua rất nhiều đớn đau,
khổ năo. Nhiều lần tôi đă nghĩ đến tự tử, cho xong tất cả. Nhưng có
cái ǵ đó thật
sâu trong
tâm tôi
bảo rằng
đừng
làm như thế, đó chỉ là một giai đoạn trong cuộc đời mà tôi phải trải qua
mà thôi, chỉ là một quá tŕnh học hỏi thôi mà, hăy làm điều ǵ đó
tốt đẹp bây giờ và học hỏi ra từ chính kinh nghiệm
này.
Cần phải có những trải
nghiệm đau đớn như vậy.
Không có đau khổ, chúng ta sẽ không học hỏi
và trưởng thành lên được.
Giờ đây, khi nh́n lại cuộc đời
ḿnh, tôi mới thấy rằng ḿnh đă tiếp xúc, va chạm với rất
nhiều sự kiện đa dạng, có rất nhiều thầy, rất nhiều tôn giáo, nhiều
nỗi đam mê và cũng thật nhiều đau khổ.
Bây giờ tôi
hiểu được
rằng tất
cả
những điều đó giúp tôi trở thành một con người tốt đẹp hơn. Tôi đă học
hỏi được nhiều bài học và tôi rất vui vẻ về điều đó. Điều quan trọng
là phải hiểu được những điều này.
Hỏi: Ngài nói rằng
khi chánh niệm sắc bén, độ dài của ḍng tâm hữu phần
(bhavanga-citta: hộ kiếp tâm) sẽ được rút
ngắn lại;
và điều
này cũng liên quan đến cả sự cảm nhận về thời gian nữa, xin Ngài
giải thích thêm về điểm này?
Đáp: Trong giấc
ngủ sâu, ḍng tâm hữu phần trôi chảy liên tục. Trong khoảng thời
gian đó, chúng ta không c̣n ư thức về thời gian nữa. Chúng ta không biết là
ḿnh đă
ngủ bao
lâu.
Có
lúc chúng ta nghĩ ḿnh đă ngủ rất lâu, nhưng nh́n đồng hồ th́ mới chỉ có
vài phút. Lúc khác, chúng ta lại có cảm giác ḿnh chưa ngủ đủ, nhưng
thực ra xem lại mới nhận ra ḿnh đă ngủ rất lâu rồi. Chúng ta mất
dấu thời gian, không c̣n ư niệm về thời gian nữa. Ḍng tâm hữu phần
càng kéo dài, chúng ta càng mất dấu thời gian. Khi ở trong ḍng tâm
hữu phần, chúng ta không sử dụng được thời gian của ḿnh. Càng dành
nhiều thời gian để hay biết, chúng ta càng có thêm nhiều thời gian
cho chính ḿnh.
Khi hành thiền, chúng ta tu
tập vithi- citta, là tâm biết cảnh hiện tại. Chúng ta
càng thực
hành nhiều,
th́ mặc
dù
có
lúc tâm
vẫn rơi
lại vào
trạng thái
nền (Bhavanga-ḍng
tâm hữu phần hay hộ kiếp
tâm), nhưng nó sẽ không ở lại lâu trong đó. Một tâm khác sẽ sanh lên
với đầy đủ sức mạnh của nó. V́ vậy, khoảng tâm hữu phần sẽ ngày càng
ngắn lại. Chẳng hạn như mỗi giây bạn chánh niệm được một lần, th́
trong 10 giây bạn chỉ có được 10 tâm chánh niệm, và ở khoảng giữa
th́ toàn là ḍng tâm hữu
phần. Nếu bạn chú tâm hơn nữa, nó có thể lên đến 100 lần. Điều đó
nghĩa là bạn sẽ có thêm thời gian. Bạn sẽ làm được nhiều việc hơn
trong khoảng
thời gian
có thêm
ấy. Bạn có thể hay
biết được nhiều đề mục hơn. Theo cách đó, bạn sẽ có cảm tưởng ḿnh
có nhiều
thời gian
hơn. Bốn
tầng
tuệ giác có thể sanh khởi (tuệ thứ 12, 13, 14 và 15) chỉ trong ṿng một
giây đồng hồ, làm sao điều đó có thể xảy ra trong một khoảng thời
gian ngắn như
vậy?
Hỏi: Bạch Ngài, có
thể đạt được 4 tầng
tuệ giác
này mà không cần tu
tập
trong môi trường tu viện không ạ?
Đáp: Được, có thể
được. Nó c̣n phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nữa. Trong thời
Đức Phật và ngay cả thời
bây giờ,
tôi biết
một số
người là
cư sỹ tại gia nhưng đă đạt được những tầng tuệ giác rất sâu
sắc.
Hỏi & đáp:
Chỉ có
suy nghĩ mới làm cho bạn tự đồng hóa ḿnh với nó. Đó
là lư do tại sao tôi đă cảnh báo các bạn rất nhiều lần là
đừng suy nghĩ quá nhiều. Những suy nghĩ thoáng qua vẫn đến một cách
tự nhiên; bạn nhận biết nó và buông nó. Suy nghĩ sẽ làm cho bạn tự
đồng hóa ḿnh với nó. Khi suy nghĩ sanh khởi, chỉ cần hay biết nó. Ở
giữa các tầng tuệ giác, những chớp suy nghĩ vẫn xuất hiện, chúng rất
rơ. Bạn không cố ư suy nghĩ. Quá tŕnh khái niệm hóa cũng là một
chức năng của tâm. Nó xảy ra một cách tự nhiên. Trong bất cứ tầng
tuệ nào cũng đều có những chớp suy nghĩ sanh khởi. Xét về một mặt
nào đó, nó chỉ để làm rơ thêm tuệ
giác đó.
Nó có
lợi ích
nhất
định,
nhưng nếu suy nghĩ quá nhiều th́ lại trở thành một trở ngại.
Hỏi & đáp:
Đạo và phi đạo (đạo phi đạo
tri kiến tịnh) xảy ra ở tầng tuệ giác thứ 4, dính
mắc vao
kinh nghiệm
hỷ lạc trong thiền
và nhận ra đó không phải là chánh đạo, rồi quay lại với thiền tập.
Đây cũng là một loại suy nghĩ, nhưng là
suy nghĩ
đúng đắn.
Samma-
ditthi (Chánh kiến),
Samma- sankappa
(Chánh tư
duy), đều
là những nhân tố
cần thiết. Trong tiếng Anh, đó là thấy đúng đắn, tư duy đúng đắn và
chân chánh.
Hỏi & đáp:
Một số
người bỏ thiền, họ muốn thoát khỏi
nó. Một
số người
thực
sự đă đứng dậy bỏ đi. Họ muốn giải thoát, giải thoát khỏi cái ǵ? Dù đi
đâu chăng nữa, bạn cũng luôn luôn phải mang theo cái thân ngũ uẩn
này. Đôi khi khát vọng giải thoát, khát vọng đi khỏi lại được diễn
dịch nhầm ra thành lánh xa khỏi môi trường xung quanh. Điều này có
thể diễn ra một cách vô thức. Đối với tôi, khi hành đến giai đoạn
này, tôi không muốn sống ở trong chùa nữa. Tôi nghĩ đó không phải là
một nơi thích hợp. Tôi muốn t́m một nơi tốt hơn, yên tĩnh, xa vắng
và thanh b́nh hơn, ở đây
có quá nhiều xáo động. V́
vậy, ước muốn thoát khỏi tiến tŕnh này lại bị hiểu nhậm thành mong
muốn đi khỏi nơi ḿnh đang sống. Đôi khi có những
việc đáng
buồn xảy
ra; có
người
bỏ việc, người ly hôn; ngay cả khi những sự việc ấy đă xảy ra, họ vẫn
muốn giải thoát, giải thoát khỏi cái ǵ? Điều này xảy ra bởi v́ họ
bắt đầu nghĩ và nhận thất tất cả mọi thứ đều là khổ năo và bất toại
nguyện. Họ thấy công ăn việc làm, người họ cùng chung sống, nơi họ
đang ở đều không tốt đẹp. Họ muốn bỏ đi, muốn được tự do. Chúng ta
không thể bỏ đi lên sống trên mặt trăng được; chúng ta phải ở trên
thế giới này và sống cùng mọi người. Đó là lư do tại sao khi thiền
sinh đạt đến giai đoạn này, điều rất quan trọng là
phải cảnh báo họ
đừng nghĩ
ngợi quá nhiều, chỉ hành thiền thôi, bởi v́ nếu nghĩ ngợi,
bạn sẽ hướng khát vọng “muốn
được
giải thoát”
đó đến
một
đối
tượng khác mà nó sẽ c̣n gây ra nhiều sự lầm lẫn, mơ hồ hơn nữa.
Thật là khó để giải thích
được những điều này một cách thực sự, thậm chí là chính bản thân
ḿnh nữa. Đôi khi nó xảy đến rất nhanh; bạn không biết điều ǵ đă
xảy ra nữa, bạn cảm thấy rất khác lạ nhưng không biết điều ǵ đă xảy
ra. Điều rất quan trọng là bạn phải trao đổi điều này với thầy của
ḿnh, đó phải là người đă từng hành thiền và đă trải qua tất cả
những kinh nghiệm này, đă nghiên cứu, học hỏi và có khả năng hiểu
được sự việc diễn ra như thế nào, và tại
sao nó diễn ra. Bạn
cũng nên trao đổi với những thiền sinh đă thực hành nhiệt
tâm, hết
ḿnh và
cũng đă
thực
sự
trải nghiệm qua những điều như vậy. Một người không thể trải nghiệm tất
cả mọi thứ một cách chi tiết được. V́ vậy, bạn cần phải có thầy và
những người khác để cùng trao đổi, và nếu có được kinh nghiệm đó
trong một thời gian dài, bạn sẽ hiểu được nó một cách rất sâu sắc.
Do vậy, khi một thiền sinh trở nên chán nản và trông rất buồn, không
hứng thú
với bất
cứ điều
ǵ nữa,
đôi khi cũng
không cảm thấy
muốn ăn,
ngay cả đồ ăn cũng
không có ǵ hấp dẫn nữa, khi đó một người thầy giỏi sẽ thấy được
rằng học tṛ ḿnh đang có tâm trạng chán nản. Thiền sư có thể khuyến
khích, sách tấn và cảnh báo học tṛ ḿnh:“Hăy
tiếp tục
thực hành,
đừng
chán nản, đừng bỏ cuộc, đây
là điều mà con phải vượt qua”.
Một số người nghĩ rằng sau
tầng tuệ thứ tư mọi thứ sẽ thú vị, an lạc và vui vẻ hơn.
Không, điều đó không hề xảy ra. Mà nó sẽ đi xuống. Chúng ta phát
triển được tuệ giác sâu sắc hơn,
và lại không cảm
thấy hạnh phúc chút nào,
nhưng đây không phải là sự trầm cảm.
Hỏi & đáp:
Sống ở
một nơi thanh vắng, ít công việc, ít phận sự rất có lợi. Nó giúp
định và tuệ phát triển nhanh chóng hơn. Song Đức Phật cũng rất có
ḷng thương tưởng đến chúng sanh. Một
lần, tôi
nói với
Sư phụ
tôi là:
thay
v́ trở thành một nhà sư, có lẽ con sẽ làm một đạo sĩ th́ tốt hơn, bởi v́
một nhà sư phải phụ thuộc quá nhiều vào người khác. Là một đạo sĩ
tốt tôi có thể tự trồng rau, tự nấu nướng và được sống một cách độc
lập, bởi v́ sống một cuộc sống đơn giản th́ chỉ cần rất ít là đủ. Sư
phụ nói rằng không nên làm đạo sĩ, và người khuyên tôi xuất gia làm
một nhà sư. Lúc đó tôi vẫn chưa xuất gia. Sư phụ hỏi tôi có biết tại
sao Đức Phật không cho phéo các Tỳ kheo gieo trồng, cấy hái và nấu
nướng bất cứ loại thực phẩm nào không. Tôi nói: thực sự con cũng
không hiểu lư do tại sao, bởi con nghĩ, trước kia Đức Phật cũng từng
làm đạo sĩ cả một thời gian dài. Sư phụ nói:
đúng, nhưng
đó là trước khi
Ngài
thành Phật. Nếu các nhà sư tự gieo trồng, cấy hái, tự nấu nướng và sống
tách biệt với mọi người th́ ai sẽ là người duy tŕ Giáo Pháp? Con
không tiếp xúc với mọi người, th́ ai sẽ dạy dỗ
họ?
Tiếp xúc với mọi người là
điều rất quan trọng, song điều quan trọng khác là đôi khi bạn cũng
nên phải sống một ḿnh.
Sư phụ giảng giải điều đó
cho tôi một cách thật nhẹ nhàng, dịu dàng và đầy t́nh thương. Người
thuyết phục tôi
xuất gia
trở thành một nhà sư. Tôi nói tôi
không muốn
dạy và
điều duy
nhất
tôi muốn làm là sống một cuộc đời yên tĩnh và b́nh an.
Thực chất tôi là một người
rất nhút nhát, một số người trong các bạn cũng có thể nhận ra được
điều ấy. Khi c̣n trẻ tôi rất ít nói. Khi có người yêu cầu tôi phát
biểu, dù chỉ trong 5 phút thôi mà tôi cũng lúng túng, bối rối đến
nỗi nói ra những điều ḿnh không định nói. Tôi xấu hổ đến mức nghĩ rằng sẽ không bao giờ nói chuyện
trước đám đông nữa. Sau này, ngay cả khi đă trở thành một nhà sư, có
người đề nghị tôi cho xin giới, tôi cũng không thể làm được. Tôi lẫn
lộn lung tung và c̣n đọc nhầm các điều giới nữa. Tôi đă thực sự nghĩ rằng:
“Đây không
phải là
công
việc dành cho tôi, tôi
không muốn nói chuyện hay thuyết pháp, tôi không thuyết pháp được”.
Sư phụ nhẹ nhàng khuyến khích tôi đi thuyết pháp, nói chuyện. Thực
tế là tôi đă chạy trốn. Nhiều lần Sư phụ nói hăy đến ở với người và
giúp người dạy học. Tôi trả lời, không ạ.
Một buổi tối tôi đến chỗ ở
của Sư phụ và nói rằng tôi chuẩn bị ra đi, tôi xin đănh lể và xin
sám hối với Sư phụ nếu đă trót lỡ làm điều ǵ sai trái với người.
Tôi đă chạy trốn đến mấy năm trời, khoảng 6 năm bởi v́ Sư phụ muốn
tôi ở
gần người và dạy thiền. Sư
phụ muốn đưa tôi đi cùng sang các nước phương Tây,
đến Mỹ;
tôi nói
là tôi
không
muốn
đi. Tại sao tôi lại phải cần đến nơi đó làm ǵ? Rất kiên nhẫn, chậm răi
và với đầy t́nh thương, người đă khuyến khích tôi dạy thiền.
Hỏi & đáp:
Thực ra không phải tôi tự
trở lại với Sư phụ. Tôi bị viêm Amiđan và sốt rét, rồi t́nh cờ lại ở
cùng trong một thành phố nơi người đang có mặt. Ngày nào tôi cũng bị
sốt cao và một người bạn bảo tôi phải ra thành phố chữa bệnh, nếu cứ
ở lại đó th́ tôi sẽ chết. Thế là tôi phải về thành phố và đến bệnh
viện cắt Amiđan. 10 ngày sau ca mổ, khi tôi đă bắt đầu hồi phục và
có thể nói được một chút th́ có người nói Sư phụ tôi đang có
mặt trong thành phố
này. Sư
phụ nghe
nói tôi
đang
ở
đây và phải mổ, v́ vậy người hỏi thăm mọi người về t́nh h́nh sức khỏe
của tôi. Tôi nghĩ: ḿnh sẽ làm ǵ bây giờ đây,
ḿnh không thể
chạy trốn
nữa. Tôi đến đảnh
lễ Sư phụ và người bảo tôi ở lại đó. Tôi nghĩ, trời ạ, ḿnh không
thể lại nói không với thầy lần nữa! Sư phụ nói, 2 năm tới Sư phụ sẽ
đi Mỹ lại lần nữa
và đang chuẩn
bị cho
chuyến đi
đó. Tôi nói: “Vậy cũng được, con sẽ đi rồi về cùng với Sư
phụ”, bởi v́ tôi biết Sư phụ sẽ không ở lại đấy. Sư phụ nói thế th́
được, Sư phụ sẽ không để con lại ở đấy đâu. V́ vậy tôi chuẩn bị
trong ṿng hai năm, bởi v́
từ lâu tôi đă hoàn toàn bỏ không đọc sách vở ǵ nữa. Đọc sách quả là
một gánh nặng, tôi phải hiểu,
ghi nhớ
và dịch
sang tiếng
Anh.
Tôi phải hiểu từ Pali tương ứng trong tiếng Anh là ǵ nữa. Tôi cố t́m
được cuốn từ điển Pali-Anh và phải nhớ hàng ngàn từ mới… phải nhớ
bao nhiêu thứ vào đầu như
thế thật là khổ. Tôi đă từ bỏ học hành và suy nghĩ trong một thời
gian quá lâu rồi, và điều đó thật là thích. Phải mất hai năm để
chuẩn bị, ngày nào cũng phải học.
Khi chúng tôi đến Mỹ, Sư
phụ nói ḿnh sẽ chỉ ở lại đây khoảng 4 tháng, và tôi nghĩ thế cũng
được. Sau 4 tháng ở Mỹ, Sư phụ nói bây giờ Sư phụ phải về c̣n con sẽ
ở lại đây. Sư phụ nói điều đó một cách đầy t́nh cảm, thật là khó có
thể nói không với Sư phụ. Sư phụ luôn nói
một cách
rất dịu
dàng;
Sư
phụ không chờ đợi bạn sẽ nói không, Sư phụ chẳng bao giờ chờ đợi người
khác nói không cả. Sư phụ nói mọi người rất vui v́ có con ở đây với
họ, nếu có thể được th́ c̣n hăy ở lại. Tôi nói: vậy cũng được, con
sẽ không xin phép Sư phụ nữa và con muốn biết Sư phụ có cho phép con
được trở về bất cứ khi nào con muốn không. Sư phụ nói: được, con có
thể trở về khi nào con muốn. Tôi nghĩ ḿnh sẽ ở lại trong ṿng 3
tháng, như vậy là ở Mỹ 7 tháng cả thảy, nhưng rồi phải đến 14 tháng
sau tôi mới có thể trở về được. Lúc đó tôi nghĩ thế là đủ đối với
ḿnh, tôi rất vui v́ đă đến đây, tôi đă học hỏi được rất nhiều,
nhưng tôi phải trở về. Mấy người
bạn của
tôi nói:
“Chúng tôi
sẽ
làm cho sư phải hối hận v́ đă bỏ rơi chúng tôi lại
như thế”.
Họ là
những học giả Pali
xuất sắc nhưng lại không biết nói tiếng Anh. Tôi nói với họ là tôi
đă làm hết sức ḿnh và xin phép cho tôi được trở về.
Khi tôi trở lại, Sư phụ nói: một nhà sư có những lúc cần phải sống độc
cư một ḿnh để tu tập, nhưng cũng cần phải tiếp xúc với mọi người
nữa. Nhiều lần tôi nói với người là tôi vẫn chưa học đủ, Người nói
rằng nếu cứ đợi cho đến lúc đó th́ con sẽ chết trước khi học đủ. Bao
nhiêu mới là đủ? Sư phụ cũng cảnh báo tôi đừng tự cho ḿnh là một
người thầy, phải biết khiêm tốn. Điều này
rất quan
trọng. Tôi
biết có
những
người đă phạm
rất nhiều
sai lầm. Nhiều người thầy phạm sai lầm là đă tự măn cho rằng
ḿnh là một người thầy. Họ không có đủ sự khiêm cung. Khiêm tốn là
điều rất quan trọng. Tôi giúp đỡ bạn nhiều đến mức có thể, tôi
không phải là người biết
tất cả mọi thứ trên đời, tôi biết được điều ǵ đó và cố gắng hết sức
để giúp các bạn. Tôi không thể cung cấp cho các bạn những kiến thức
hoàn chỉnh được, bởi v́ tôi cũng chỉ hiểu biết được phần nào mà
thôi. Tôi không biết tất cả mọi thứ, nhưng biết được đến đâu, tôi
muốn chia sẻ hết với các bạn đến đó. Những người thầy khác sẽ đến và
giúp đỡ các bạn học hỏi thêm nữa. Đó là tất cả những điều mà tôi có
thể hy
vọng được.
Tôi sẽ
ở lại
đây
trong 4
tháng và
sẽ giúp đỡ
các bạn
đến mức có thể được
---o0o---
Mục Lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05
06 |
07 |
08 |
09 |10
|11
BACK
|