|
Bản Đồ
Hành Tŕnh
Tâm Linh
Thiền Sư
Sayadaw U Jotika
Tỳ Kheo Tâm Pháp
dịch
Chương
7:
Tuệ thứ
tư: Kinh
nghiệm sự sanh diệt của các hiện tượng.
Phân biệt
đạo và phi
đạo
Phần
1:
Tuệ thứ
tư:
Kinh nghiệm sự sanh diệt
của các hiện tượng. Phân
biệt
đạo và phi
đạo.
Ở giai đoạn này, khi kinh
nghiệm một điều ǵ đó, bởi v́ đôi khi bạn có thói quen suy nghĩ và
ghi nhận bằng cách định danh, bạn cố đặt tên cho nó, nhưng khoảng
khắc bạn cố đặt tên th́ nó đă không c̣n ở đó nữa. Do đó, bạn có cảm
tưởng là ḿnh không thể đặt tên cho mọi thứ được nữa, chỉ có thể
thấy chúng, quan sát chúng mà không suy nghĩ, không làm
một cái
ǵ hết.
Đối với
những
người mới đến, thiền
sư dạy phải ghi nhận mọi thứ: nghe, nghĩ…
Tuệ thứ tư: Kinh nghiệm sự
sanh diệt của các hiện tượng. Phân biệt đạo và phi đạo.
Hôm nay, tôi bắt đầu giảng về tuệ giác thứ tư, Udayabhaya-nana, Tuệ Sanh diệt. Ở tuệ thứ ba, khi hành
thiền bạn đă thấy cả ba đặc tướng của các hiện tượng tự nhiên là vô
thường, khổ và vô ngă. Mọi thứ sanh bởi v́ có nhân
duyên khiến chúng sanh khởi, chúng diệt bởi v́ bản chất của
chúng là hoại diệt. Chúng ta không thể muốn nó không sanh hay đừng
diệt được. Không có ǵ là một thực thể trường tồn cả, không
cốt lơi,
không thực
thể,
không
linh hồn; tất cả chỉ
là tiến tŕnh; đây là một điểm độc đáo của Phật Pháp. Bằng cách này
hay cách khác, con người vẫn muốn tin rằng có một cái ǵ đó thường
hằng, vĩnh cửu, có một cái không bao giờ thay đổi. Trong tất cả giáo
pháp của Đức Phật, không
có một cái ǵ là một “sự vật” cả, chỉ có những tiến tŕnh. Khi nói
về “sự vật”, xin bạn cố gắng hiểu đúng theo nghĩa chúng ta muốn nói.
Từ “sự vật” có rất nhiều ư
nghĩa. Không có một “sự vật” nào cả, chỉ có những tiến tŕnh. Đây là
một điều hết sức sâu sắc và quan trọng. Đó chính là chỗ Phật Pháp
khác xa tất cả mọi tư
tưởng tâm linh và tôn giáo khác.
Trong giáo lư của các tôn giáo khác, bạn thường nghe nói về vô thường
theo cách này hay
cách khác, và có
cả sự
bất toại nguyện nữa. Khi nói về vô thường, họ nói về sự vô
thường của h́nh thể hay dáng điệu. Chẳng hạn bạn đánh vỡ chiếc ly
thành nhiều mảnh, mọi người nói rằng: “Ồ, đúng là vô thường”,
nhưng chẳng lẽ trước khi vỡ nó là thường c̣n hay sao? Không, không
phải vậy. Ngay cả
trước khi vỡ nó
cũng đă là vô thường.
Vô thường diễn ra trong mọi lúc, hầu như không thể nhận ra.
Nếu nghĩ về h́nh thể, khi h́nh thể đó c̣n nguyên vẹn th́ chúng ta lại
cho nó là thường c̣n. Trong giáo pháp của Đức Phật, vô thường không
có nghĩa là vô thường của h́nh thể, mà là tính vô thường của các
tính chất: nóng, lạnh, cứng, mềm… Những tính chất này
luôn luôn thay đổi.
Như vậy, ở tuệ giác thứ ba
chúng ta thấy được cả 3 đặc tướng một cách tổng quát. Và cũng chính
ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngă này sẽ trở nên ngày càng sâu sắc
hơn khi tiến lên những tầng tuệ cao hơn. Tầng tuệ thứ tư này được
gọi là Ubadayabbaya- nana, Tuệ sanh diệt. Udaya
nghĩa là sanh và vaya
nghĩa là
diệt, biến
mất.
Một cách định nghĩa khác của vô thường là “hutva abhavattthena anicca”
(~Vsm.628). Hutva nghĩa
là “sau khi đă sinh ra” – tức là diễn ra, sanh khởi.
Abhava nghĩa là không c̣n tồn tại nữa. Ở tuệ giác này, vô thường
không có nghĩa là hiệu hữu dưới một h́nh thức khác. Vô thường có
nghĩa là sự biến mất hoàn toàn. Đây chính là chỗ mọi người thường
nhầm lẫn và bối rối, họ hay hiểu nhầm về điểm này.
Thay đổi chỉ là một mặt của
vô thường (nói một cách chung chung). C̣n vô thường thực sự nghĩa là không c̣n tồn tại nữa.
Khi c̣n ư niệm về một cái đang thay đổi nhưng vẫn tồn tại dưới một dạng
nào đó, chúng ta vẫn c̣n chấp thủ vào ư tưởng về mọt cái ǵ đó
trường tồn. Mặc dù nó hơi khác so với cái trước
đó, song chúng ta vẫn nghĩ rằng chúng chỉ là một; do đó vô
thường thực sự có nghĩa là “không c̣n tồn tại nữa”.
Ở tầng tuệ này, hành giả đă phát triển được một mức định rất mạnh, chánh
niệm rất mạnh và rất ít suy nghĩ. Đôi lúc bạn cũng suy nghĩ song đó
chỉ là suy nghĩ về các hiện tượng đang quán sát, không phải nghĩ về
các vấn đề khác. Ở giai đoạn này, hành giả hầu như chấm dứt mọi suy
nghĩ về việc khác. Song
thỉnh thoảng
hành giả
cũng
có nghĩ đôi chút về thiền và các kinh nghiệm của ḿnh. Trước khi đạt đến
tŕnh độ này hành giả có rất nhiều suy tư, lo nghĩ không biết ḿnh
đang hành đúng hay sai. Đây có phải là danh không? Đây có phải là
sắc? Đây có phải là vô thường? Đây có phải là khổ? Sự phân vân này
vẫn tiếp diễn. Nhưng khi đạt đến giai đoạn này, mọi suy nghĩ này đều
biến mất. Tiến tŕnh hành thiền trở nên rất tự nhiên và không cần
nhiều cố gắng, v́ vậy tâm hành giả trở nên
rất quân b́nh. Hành giả đă có tâm xả (upekkha); đă
phát triển được một sự quân b́nh rất mạnh. Tâm xả này có nhiều đặc
tính và phương diện; một trong những đặc tính đó là không sợ hăi,
cũng không
thích thú.
Thích thú
là
một loại tâm tham, ưa thích. Không phấn khích, không hạnh phúc cũng
không đau khổ. Tâm trở nên rất yên tĩnh và cân bằng.
Quá tŕnh hành thiền trở nên tự động, không cần nhiều cố gắng. Tâm an
trụ trong đề mục hầu như suốt thời gian. Đôi lúc nó cũng phóng đi
đây đó. Hành giả nhận ra, chỉ thế là đủ để kéo nó quay lại, không
cần phải vật lộn với nó nữa. Trước khi đạt đến giai đoạn này, tâm
chỉ muốn phóng đi lang thang, nghĩ ngợi việc ǵ đó. Bạn kéo nó quay
lại và chỉ vài giây sau nó lại phóng đi tiếp. Đó là một cuộc chiến
đấu, chúng ta phải vật lộn với chính tâm ḿnh. Nhưng
sau một
thời gian,
tâm lắng
dịu
lại và an trụ ở đó; chúng ta không c̣n phải chiến đấu với những ư nghĩ
của ḿnh nữa. Sự tinh tấn cũng trở nên rất cân bằng. Trước đó chúng
ta không có đủ tinh tấn và không có nhiều nhiệt tâm, hứng thú lắm.
Nhưng ở giai đoạn này, tinh
tấn trở nên cân bằng, vừa
phải và đầy đủ. Trước kia chúng ta cố gắng quá mức, dốc vào
đó quá nhiều sức lực và tâm trở nên xáo động, trạo cử. Tinh tấn và
cố gắng quá nhiều gây ra trạo cử;
tinh tấn và
cố gắng
quá ít
khiến tâm lờ đờ,
chậm chạp và lười biếng. Ở giai đoạn này, sự tinh tấn rất cân bằng,
chỉ vừa đủ để giữ chánh niệm và để sự hành thiền tiếp diễn đều đặn.
Hành giả có thể ngồi thiền rất lâu không khó khăn,
bởi v́ ở giai
đoạn này
trong
tâm
không c̣n xáo động, bất an nữa. Hầu như mỗi khi hành giả không ngồi yên
được th́ đó là dấu hiệu của tâm xáo động, bất an chứ không phải chỉ
là do cái đau trong thân. Ngay cả ở giai đoạn này, cái đau vẫn đến
và đi, nhưng bởi v́ tâm đă được lắng dịu và không có trạo cử nên
cũng không có mong muốn làm ǵ nữa. Tâm chỉ gắn chặt trong thiền,
quan sát mọi thứ sanh và diệt ngay tại chỗ, ngay trong sát na hiện
tại. Đề mục thiền cũng trở nên ngày càng vi tế hơn; chúng xuất hiện
rất nhỏ nhiệm và vi tế. Trước kia, thường có những suy nghĩ và cảm
giác thô ráp xuất hiện, nhưng giờ đây các cảm giác trở nên rất êm
dịu và vi tế. Các suy nghĩ trở nên rất chậm, rất mịn và vi tế.
Như vậy, ở đây tâm có 6 đặc tính: không sợ hăi, chẳng phấn khích; không
ưa, chẳng ghét, không hạnh phúc cũng chẳng đau khổ (nghĩa là không
phấn khởi, hứng thú về bất cứ điều ǵ); thiền trở thành tự động,
tinh tấn trở nên cân bằng, có thể ngồi lâu không gặp khó khăn; đề
mục thiền trở nên rất vi tế và không bị xao lăng, tán tâm. Có nhiều
loại xả (upekkha) khác nhau. Loại xả này được gọi là tâm xả
với 6 đặc tính.
Như vậy, tầng tuệ này được
định nghĩa như
sau:
Paccuppannanam dhammanam viparinamanupassane
Panna
udayabbayanupassane nanam
~Pts i.57 Từ
paccuppannanam
rất quan
trọng. Nó có nghĩa là
hiện tại,
ngay trong
hiện tại. Quan sát tiến tŕnh thân tâm ngay trong hiện tại,
không phải suy nghĩ về cái xảy ra trước đó. Một số người cho rằng:
cứ nghĩ về quá khứ để thấy tất cả những ǵ từng xảy ra đều đă qua
mất, họ cảm thấy như vậy là đă hiểu được vô thường. Nhưng đó không
phải là trí tuệ thực sự, không phải là tuệ giác đích thực về vô
thường.
Tuệ giác đích thực về vô
thường phải diễn ra ngay trong hiện tại, trong chính những ǵ đang
diễn ra bây giờ!
Do đó,
paccuppannanam là đang diễn ra
ngay bây
giờ. Dhammanam (từ Dhamma-pháp, có rất nhiều nghĩa), ở
đây là tiến tŕnh thân tâm. Thấy được sự diệt
viparinamanupassane)
của những pháp đang diễn ra ngay trong
hiện
tại
(paccuppannanam
dhammanam) và thực sự tuệ tri nó (panna-với
trí tuệ)
được gọi
là
udayabbayanupassane nanam
hay là
udayabbaya-nana, Tuệ Sanh diệt.
Ở giai đoạn này, mỗi khi
hành giả chú ư, hay biết một đối tượng sanh lên, sự sanh khởi trở
nên rất rơ và nó biến mất ngay lập tức. Tâm hay biết rất sắc bén và
rơ ràng, thấy rơ sanh và diệt, sanh ngay
lập tức,
diệt ngay
tức th́.
Hành
giả thấy nó sanh ở đây và
diệt cũng tại đây, mà không biến đổi trở thành khác.
Jatam rupam paccuppannam
tassa nibbattilakkhanam Udayo viparinamalakkhanam
vayo
~Pts
54
Đặc
tính
sanh
khởi (nibbattilakkhanam)
của sắc diễn ra trong hiện tại (jatam rupam
paccuppannam tassa) được gọi làudayo;
đặc tính
của nó
được
gọi là vayo.
Hai đặc
tính này (udayo
và vayo) đi liền
với nhau tạo thành từ udayabbaya.
Thực tế có nhiều loại hiện
tại (paccuppanna,
Vsm. 431).
Có một
loại
được
gọi là
santati-paccuppannam, nh́n nhận mọi thứ như là một nhóm, một hợp
thể. Chẳng hạn khi chúng ta nghe một tiếng động (chuông ngân)… phải
vài giây sau nó mới biến mất. Tiếng chuông đầu tiên chúng ta nghe
“boong!” rồi dần dần tan biến. Nếu nh́n nhận như một tổng thể, tiếng
chuông kéo dài đến vài giây, điều này được
gọi là
santati; santati nghĩa
là một chuỗi, coi chả một chuỗi chỉ như một sự việc duy nhất.
Đây là một cách hiểu rất thô thiển về vô thường. Nhưng nếu chú ư hơn
nữa vào âm thanh, bạn sẽ nghe thấy tiếng chuông ngân, rất nhiều
tiếng ngân nhỏ, tiếng sau sanh lên tiếp nối tiếng trước, càng về sau
càng nhỏ
dần; thanh
âm mới
sanh
lên
trong từng khoảnh khắc. Mỗi giây có nhiều thanh âm sanh lên và nhiều âm
thanh diệt đi. Nếu suy nghĩ trên lư thuyết, bạn có thể thấy các rung
động âm thanh xảy ra vào khoảng một ngàn lần
mỗi giây,
rất ngắn
ngủi, rất
nhanh. Khana-paccuppananna
(sát na hiện tại) rất ngắn
ngủi. Song các hiện tượng của vật chất và tâm sanh diệt nhanh đến
mức chúng ta không thể kinh nghiệm hay nh́n thấy được. Đức Phật nói
tiến tŕnh thân sanh diệt vào khoảng 1000 tỷ lần trong mỗi giây!
Kinh nghiệm được điều này là một
điều không thể làm được đối với một người b́nh thường. Tiến
tŕnh tâm c̣n diễn ra
nhanh gấp hai
lần.
Tuy vậy, nếu trong
một giây
chúng ta
kinh
nghiệm
được 10 lần vô thường, th́ có thể cho rằng ḿnh đă hiểu được vô thường.
Thông thường chúng ta thấy được khoảng hai lần mỗi giây, nhưng khi
rất định tĩnh và tập trung, thời gian sẽ kéo dài ra, mỗi giây có thể
trở thành một khoảng thời gian dài. Có lúc, hành giả cảm thấy như
ḿnh đă được ngồi được cả tiếng đồng hồ, nhưng nh́n đồng hồ mới thấy
chỉ được 5 phút. Ở một giai đoạn
khá trong
thiền, bạn ngồi 3
hoặc 4 tiếng đồng
hồ, song lại có cảm giác là mới ngồi được khoảng 1 tiếng mà thôi.
Thời gian trở nên rất thông
thực; Nó có thể dài ra khi chánh niệm nhanh nhạy và sắc bén.
Có lúc, khi bạn thể nhập
một trạng
thái thâm
sâu,
thời
gian biến mất. Sự biến dạng
của thời gian bắt đầu xảy ra
từ giai đoạn đầu của tầng tuệ này.
Ở giai đoạn này, khi kinh
nghiệm một điều ǵ đó, bởi v́ đôi khi bạn có thói quen suy nghĩ và
ghi nhận bằng cách định danh, bạn cố đặt tên cho nó, nhưng khoảng
khắc bạn cố đặt tên th́ nó đă không c̣n ở đó nữa. Do đó, bạn có cảm
tưởng là ḿnh không thể đặt
tên cho mọi thứ được nữa, chỉ có thể thấy chúng, quan sát
chúng mà không suy nghĩ, không làm
một cái
ǵ hết.
Đối với những người mới đến, thiền sư dạy phải ghi nhận mọi
thứ: nghe, nghĩ… Song khi đă đạt đến chỗ này, ngay khoảnh
khắc bạn
cố ghi
nhận, nó
đă
không c̣n ở
đó nữa. Bạn không
thể ghi nhận được, bạn
buông bỏ việc ghi nhận và chỉ giữ chánh niệm và nh́n thật sâu.
Ở giai
đoạn này, bạn chỉ nh́n và thấy, không
ghi nhận cái ǵ, bạn không
thể ghi nhận được nữa,
bởi
v́ ghi nhận th́ chậm c̣n thấy th́ rất nhanh.
Trong giai đoạn này, có lúc hành giả thấy được ánh sáng rực rỡ (abhasa),
đó là dấu hiệu của một nội tâm rất định tĩnh, tập trung. Ánh sáng
này có thể có nhiều h́nh dạng và màu sắc khác nhau. Đôi khi là một
ngôi sao sáng rực xuất hiện rồi biến mất rất nhanh, có lúc nó xuất
hiện từ một bên di chuyển ngang qua
trước mặt
làm hành
giả rất
thích
thú. Lúc khác hành giả lại thấy ánh sáng rực rỡ lớn rộng ra như một mặt
trăng. Trong thiền an chỉ định (samatha), hành giả cũng chứng
nghiệm được loại ánh sáng như thế này. Nó là một dấu hiệu của sự tập
trung và sức mạnh của nội tâm.
Có lúc dường như thời gian
trôi rất chậm, điều đó có nghĩa là tâm bạn
đang làm việc rất nhanh. Giữa những tiến tŕnh tâm, luôn luôn
là ở cuối tiến tŕnh, có một khoảng trống được gọi là ḍng tâm hữu
phần-bhavanga
(hoặc
hộ kiếp tâm).Khi
hành giả
có quá
nhiều bhavanga,
th́ thường
có một khoảng trống
lớn. Trong một giây chẳng
hạn, nếu
có nhiều
khoảng
trống
xen vào giữa, hành giả chỉ có thể kinh nghiệm được một số ít đối tượng.
Ít khoảng trống, hành giả sẽ kinh nghiệm được nhiều hơn. Khi kinh
nghiệm được nhiều đối tượng, nhiều sự việc, bạn cảm thấy thời gian
dường như chậm lại. Nếu nghiên cứu lượng tử và thuyết tương đối, bạn
sẽ dễ dàng hiểu được điều này.
Khi tâm làm việc nhanh hơn,
bạn có cảm giác dường như thời gian chậm lại, điều này rất thực.
Trong một giai đoạn khác của thiền,
khi tâm vượt khỏi thời gian, vượt khỏi các hiện tượng, khoảng
khắc đó bạn không thấy sanh diệt nữa, đối với bạn thời gian
không tồn
tại –
phi thời
gian.
Có một cảnh giới, trong đó
thời gian không c̣n hiện hữu.
Một đặc điểm khác của giai đoạn này
là tuệ giác (nana) trở nên rất rơ ràng, thấy rơ tâm chỉ thuần túy là một tiến
tŕnh, không phải chúng sanh. Bạn không suy nghĩ về điều đó, bạn chỉ
thấy nó đang diễn ra, nó chỉ là một tiến tŕnh, không phải
một chúng sanh nào. Khi kinh nghiệm một tiến tŕnh thân, bạn cũng
thấy y như vậy, rất rơ ràng, không chút nghi ngờ, không gợn chút suy
nghĩ. Bạn thấy nó chỉ là một tiến tŕnh tự nhiên, bạn thấy sanh diệt
rất rơ ràng, không cần cố gắng, nó rất đơn giản và minh bạch. Hiểu
biết rất sắc bén và
rơ ràng,
tuệ giác
sáng suốt,
thật
kỳ diệu. Hành giả ngạc nhiên là ḿnh lại có thể thấy được điều đó một
cách rơ ràng đến thế. Phần lớn thời gian chúng ta thường rất lơ mơ,
chậm hiểu, rối trí, chúng ta không thấy được cái ǵ rơ ràng cả. Song
ở giai đoạn này,
không suy
nghĩ, chúng ta hướng tâm đến việc ǵ đó và thấy nó rất rơ ràng, như
nó đang là. Có lúc chúng ta cảm thấy rất hạnh phúc và thỏa măn.
Hỷ (piti), rất nhiều hỷ và nhiệt tâm, đôi khi hỷ lạc thấm nhuần
khắp cơ thể. Tâm trở nên
tĩnh lặng
đến mức mọi suy nghĩ đều chấm
dứt, sự quan sát trở nên rất rơ ràng, tuệ quán trở nên rất sắc bén
và sáng suốt. Lúc đó sẽ có một loại hỷ lạc
sanh lên.
Tuy nhiên
quá nhiều
hỷ
lạc cũng làm cho tâm xáo động và điều này có thể trở thành một loại
phiền năo. Đó chính là lư
do những trạng thái này được gọi là
vipassanupakkilesa, tùy
phiền năo của thiền vipassana. Tự thân chúng th́
không phải là phiền năo. Nếu chúng ta chú ư và không để bị
dính mắc vào chúng, không tự hào, tự măn về những trạng thái
này, chúng ta sẽ không hiểu sai về các kinh nghiệm đó. Khi đó chúng
sanh chỉ sanh lên rồi diệt mất, chỉ là các hiện tượng.
Song nếu chúng ta tự măn và
dính mắc vào những trạng thái này, có lúc c̣n lầm tưởng chúng là Niết Bàn;
khi đó nó sẽ trở thành
một loại phiền năo, một tri kiến sai lầm.
Sau đó là đến
passadhi-an
tịnh; thân và tâm trở nên rất mát mẻ, thực sự mát mẻ, mát đến mức
bạn tưởng như ḿnh đang ngồi trong pḥng máy lạnh, có
lúc bạn có thể cảm nhận được những giọt nước mát lạnh trên
thân, thậm chí nhiệt độ cơ thể cũng giảm xuống. Trong chùa tôi ở,
tôi có một cái nhiệt kế, máy đo huyết áp và máy đo nhịp tim. Thỉnh
thoảng tôi buộc chúng vào người và đo huyết áp, nhịp tim và nhiệt độ
cơ thể, quả thực nhiệt độ cơ thể, huyết áp và nhịp tim có giảm
xuống, điều đó cho thấy sự chuyển hóa trong cơ thể đă chậm lại. Chỉ
có tâm là hoạt động tích cực, nhưng không phải là suy
nghĩ.
Điều đó
cho thấy suy nghĩ tiêu tốn nhiều năng lượng hơn. Lo lắng cũng làm tốn rất nhiều năng lượng.
Nếu bạn không suy nghĩ cũng chẳng lo lắng,
tâm sẽ trở nên rất sắc bén và
chỉ sử
dụng một mức năng lượng tối
thiểu.
Bạn cũng kinh nghiệm được
sukha – lạc, bởi v́
lúc đó tâm không dính mắc hay suy nghĩ bất cứ điều ǵ. Tâm rất an
lạc và giải thoát. Điều này nghe có vẻ ngược đời. Làm sao người ta
lại cảm thấy an lạc khi thấy mọi thứ đều sanh diệt tức th́ như vậy?
Bạn cảm
thấy an lạc v́ bạn hoàn toàn tách biệt và buông xả. Sự buông xả mang
lại niềm an lạc thực sự.
Dính mắc là một gánh nặng. Hầu hết mọi người đều cảm thấy hạnh phúc
khi đạt được điều ḿnh mong muốn.
Song hạnh phúc thực sự là không mong muốn ǵ cả.
Điều này rất khó mà hiểu
được. Nếu không hành thiền mà chỉ nghĩ về nó, chúng ta sẽ không thể
tin điều đó. Ở giai đoạn này, bạn không c̣n mong muốn bất cứ điều
ǵ. Không muốn ǵ cả ngoài
những nhu cầu thiết yếu hàng ngày. Bạn cũng có cả adhimokkha:
ư chí quyết
tâm và
đức tin
sâu sắc.
Ở
giai
đoạn này, hành giả có đức tin thực sự sâu sắc vào Pháp.
Điều này
quả thật đúng. Pháp hành này thực sự dẫn tới
tuệ giác thâm diệu
và giải thoát. Bạn không c̣n một chút nghi ngờ
nào nữa; hoàn toàn vượt qua mọi nghi ngờ.
Rồi đến
paggaha: bạn có rất nhiều tinh tấn và không cảm thấy
lười biếng một chút nào. Cơ thể không c̣n nặng nề nữa. Bạn chỉ muốn
tiếp tục hành thiền, không chút mệt mỏi, không hôn trầm, không ră
rượi buồn ngủ. Một số người c̣n không ngủ tư nào, họ có hành thiền cả ngày lẫn đêm. Khi bạn đặt lưng xuống
ngủ, đừng
trù định
trước là
ḿnh
sẽ phải ngủ, mà hăy chánh niệm càng nhiều càng tốt cho đến khi bạn rơi
vào giấc ngủ, thế
là đủ. Cơ thể bạn cần phải ngủ. Sau vài giờ bạn thức dậy và cảm thấy sẵn sàng
hành thiền ngay, không c̣n lơ mơ buồn ngủ chút nào nữa.
Upatthanam:
chánh niệm rất sắc bén, rất mạnh. Chánh niệm và định khác nhau, mặc
dù một mặt nào đó chúng tương tự nhau. Khi bạn có định, tâm an trụ ở
tại một điểm, song bạn không thực sự thấy được sanh diệt một cách
sắc bén. Khi thực sự chánh niệm, bạn thấy sanh diệt rất sắc bén, và
tâm luôn an trú quan sát tiến tŕnh. Thiền an chỉ định (samatha)
đem lại cho bạn định tâm
thâm hậu,
song không
đưa đến
tri
kiến và trí tuệ sáng suốt. Tâm càng tập trung, nó an trụ trên một đề mục
càng lâu. Khi tập trung hơn nữa, tâm sẽ trở nên thuần túy chánh niệm
trên đề mục và an trụ ở đó. Đôi lúc bạn mất chánh niệm, nhưng tâm
không hề bị xao lăng, phân tán. Tâm trở nên rất tĩnh lặng, định tĩnh
mà vẫn rất chánh niệm theo dơi đề mục. Trong trường hợp đó, nếu hay
biết điều này đang diễn ra th́ hăy cố gắng gia tăng thêm chánh niệm
bằng cách hay biết thêm những đề mục khác.
Nếu cùng
lúc chánh
niệm trên
hai đề mục, bạn sẽ giữ vững được chánh niệm và tỉnh giác hơn
nữa.
Khi chánh niệm rất mạnh, bạn có thể hay biết được
rất nhiều
thứ đang
diễn
ra cùng một lúc. Bạn không c̣n phải
cố gắng hay biết một hay hai đề mục nữa, không phải cố gắng
hay biết bất cứ cái ǵ, không cần lựa chọn đề mục mà chỉ đơn thuần
chánh niệm. Khi có chánh niệm, bạn sẽ thấy mọi thứ đi tới đập
vào tâm
chánh niệm,
đối tượng
đập vào tâm chánh niệm. Nhưng khi có quá nhiều đối tượng tới
và chánh niệm không thể xử lư nổi tất cả mọi thứ, tâm sẽ trở nên
trạo cử, xáo động. Khi bạn thấy tâm mất đi sự rơ ràng, minh bạch th́
hăy cố gắng thu hẹp đề mục lại, định tĩnh trở lại và chú ư vào một
hoặc hai đề mục thôi. Bạn cần phải có một chút điều chỉnh.
Lúc đầu chúng ta cố gắng chú ư đến một đề mục và tâm cứ phóng đi, lang
thang đây đó. Chúng ta nhận ra sự phóng tâm đó, đưa nó trở lại an
trú vào một đề mục khác. Chúng ta phải thực hành thật chuyên cần,
tích cực. Song ở giai đoạn này tâm luôn luôn an trụ ở đó, nó luôn
luôn hiện diện.
Đôi
khi bạn
thấy chánh
niệm như
một chiếc gương, mọi thứ đi qua trước mặt gương đều được phản
chiếu trong đó, bạn hay
biết nó một cách tự động.
Không c̣n phải lo giữ chánh niệm nữa.
Chánh niệm (sati) và
tỉnh giác (sampajanna) rất
mạnh trong
giai
đoạn
này, ngay cả ở giai đoạn trước nó cũng đă mạnh rồi. Mạnh nghĩa là chánh
niệm luôn có mặt và sẵn sàng trong mọi lúc. Bạn không c̣n
phải lựa chọn đề mục nữa. Chánh niệm luôn có đó và nó tự động hay
biết bất cứ cái ǵ sanh diệt trong sát na hiện tại. Bạn hành thiền
rất dễ dàng. Một điều nữa, mà thực ra là quan trọng nhất, đó là
nikanti: sự
dính mắc. Tất cả 9 loại kinh nghiệm trên ít nhiều đều xảy ra với mỗi
thiền sinh. Đây là dấu hiệu cho thấy tâm đă trở nên định tĩnh và
chánh niệm hơn. Đó là lư do tại sao có lúc bạn thấy ánh sáng, có lúc
tuệ giác rất sắc bén, có lúc rất nhiều hỷ, an tịnh, an lạc, hạnh
phúc, nhiều đức tin và
tinh tấn…
Những kinh
nghiệm
này
rất tốt. Không có cái ǵ sai trong đó cả, song nếu bạn dính mắc vào một
trong những kinh nghiệm này, khi đó bạn sẽ trở thành phiền năo,
nhiễm ô. Bản thân ánh sáng không phải là ô nhiễm. Tuệ giác rơ ràng
không phải là ô nhiễm. Chúng rất thanh tịnh và rất tốt đẹp. Chỉ khi
bạn dính mắc với chúng th́ chúng mới trở thành nhiễm ô.
Có khi bạn dính mắc với cái
thấy biết rơ ràng
và sắc
bén này,
bạn hănh
diện về nó và muốn có lại kinh nghiệm đó. Cái muốn đó chính là
nikanti (dính mắc)
và đó là nhiễm ô.
Bất cứ kinh nghiệm
nào đi
kèm sau
đây đều
có thể gây ra
sự dính
mắc, tham
ái
(tanha), ngă mạn (mana)
và tà kiến (ditthi). Khi thấy những loại ánh sáng rực rỡ, có
khi là một chùm sáng tỏa rộng không có h́nh dạng nhất định, chúng ta
thấy tâm ḿnh rất sáng suốt
và bởi v́ tâm tỉnh thức nên chúng ta mới kinh nghiệm được sự
sáng suốt này. Một số người lầm tưởng rằng ḿnh đă đắc đạo.
“Bây giờ tôi đă đắc đạo, tâm tôi vô vùng trong sáng, vô
cùng an
lạc, tĩnh
lặng và
giải thoát”,
tuệ giác vô cùng sắc bén, nó không thể nào tốt hơn thế. Nếu lầm
tưởng như vậy th́ đó là
tri kiến sai
lầm, tham ái (tanha), ngă mạn (mana) hoặc tà
kiến (ditthi) sẽ sanh khởi, đây chính là nhiễm ô. Có tất cả
10 loại ô nhiễm trong
thiềnVipassana
(10 tùy
phiền
năo); 9
loại đầu
bản thân
nó không
phải là nhiễm ô, chỉ có loại thứ 10 mới thực sự là nhiễm ô.
Xin hăy hiểu điều này. Bởi v́ có tâm xả (upekkha), tâm ta trở
nên quân b́nh đến mức không cần phải cố
gắng hành
thiền nữa.
Quá tŕnh
thiền tập tự diễn tiến. Đôi lúc chúng ta nghĩ rằng ḿnh không
cần phải làm ǵ cả, chỉ thư giăn buông xả thoải mái. Lúc đầu làm như
thế, bạn sẽ cảm thấy rất tốt đẹp; bạn không phải cố gắng, thật thư
giăn và thoải mái, vô cùng an lạc, tĩnh lặng và giải thoát. Nhưng
sau một thời gian, tâm bạn mất tinh tấn, nó trở nên lờ đờ và buồn
ngủ, mất đi sự sắc bén và chánh niệm và sau đó sẽ mất định tâm. Mỗi
khi trải qua kinh nghiệm này,
điều quan
trọng là
phải tự
nhắc
ḿnh rằng bản thân điều đó không phải là nhiễm ô. Chỉ có sự dính mắc vào
nó, sự tự măn hoặc thấy biết sai lầm mới là nhiễm ô.
Các loại ánh sáng rực rỡ có thể xuất hiện trong thiền an chỉ định (samatha),
chỉ nhờ vào sự tập trung đơn thuần, và chúng cũng có thể xuất hiện
trong tuệ giác Vipassana; sự hiểu biết trở nên rất rơ ràng và sắc bén đến
mức bạn cảm thấy bên trong ḿnh rất sáng suốt. Thực ra, chúng ta đă
kinh nghiệm được những điều này ngay từ lúc đầu thực hành
Vipassana. Ngay ở tuệ giác thứ nhất, khi tâm tĩnh lặng
và sáng suốt, niệm và định đă tương đối mạnh, thỉnh thoảng chúng ta
cũng kinh
nghiệm
được trạng thái nhẹ nhàng hay hỷ lạc, hứng thú này rồi. Tuy nhiên, ở
giai đoạn này, nó mạnh đến mức một số người, tùy vào tính cách của
mỗi cá nhân, đă nh́n thấy nhiều h́nh ảnh khác nhau như h́nh ảnh Đức
Phật hay những khung cảnh
b́nh an.
Bản thân tôi là người yêu
thích khung cảnh thiên nhiên, tôi yêu thiên nhiên, bởi vậy tôi
thường có xu hướng nh́n thấy hầu hết những cảnh núi rừng, ao hồ, có
lúc nh́n thấy một mặt hồ sáng trong như một tấm gương. Tùy thuộc vào
đặc điểm tính cách của mỗi người, các h́nh ảnh như vậy thường xuất
hiện trong tâm, rất sắc nét và sống động, như
thể bạn
đang ở
chính nơi
đó
vậy.
Trong một số trường hợp, bạn có thể diễn dịch và hiểu được những h́nh
ảnh này, song sự diễn dịch không quan trọng. Bạn cũng có thể t́m
hiểu được cả tính cách của ḿnh nữa. Một người có bản tính tự nhiên
là sân sẽ nh́n thấy các h́nh ảnh ghê rợn như xác chết, những khuôn
mặt xấu xí. Người có nhiều đức tin có thể thấy những h́nh ảnh Đức
Phật rất đẹp; có khi c̣n nh́n thấy Đức Phật đang sống, rất thực,
đang cử động, làm việc này việc kia nữa. Thật ra bạn không thấy được
Đức Phật thật, mà chính tâm của bạn tạo ra h́nh ảnh đó.
Khi
thấy những thứ như vậy, bất kể là
thấy cái
ǵ, chỉ
hay biết
và nhận
rơ
chúng, đừng diễn dịch, t́m hiểu bất cứ điều ǵ, bởi v́ khi diễn dịch là bạn đă suy nghĩ.
Khi suy nghĩ bạn sẽ mất niệm và định, chánh niệm sẽ thoái
hóa.
Khi kinh nghiệm được các loại ánh sáng này, bạn cảm thấy rất nhẹ nhàng.
Bạn nghĩ rằng, v́ ḿnh đă đắc đạo nên những ánh sáng này xuất hiện,
đó là sự hiểu biết sai lầm, bởi v́ hành giả cảm thấy rất an lạc và
thích thú nên tâm tham sanh khởi. Có lúc, các suy nghĩ cũng xuất
hiện, hành giả thấy các hiện tượng sanh diệt và suy nghĩ: ồ… đây
thực sự là vô thường. Ngay cả khi bạn suy nghĩ, chánh niệm vẫn rất
sắc bén và
chúng ta
nghĩ “sự
hiểu biết
của
ḿnh rất sắc bén”. Bạn tự đồng hóa ḿnh với sự hiểu biết đó. Nó trở
thành sự hiểu biết “của tôi”, trí tuệ
“của tôi”, tuệ giác “của tôi”, và cái “của tôi” này chính là
nhiễm ô. Tuệ giác không phải là nhiễm ô, song cái “của tôi” trở
thành nhiễm ô.
Một trạng thái hỷ rất mạnh sẽ xuất hiện; nó có thể tràn ngập khắp cơ
thể, hoặc chỉ một phần của thân, giống như những đợt sóng. Đôi lúc
bạn có cảm giác thân thể ḿnh đang trôi bồng
bềnh, hay không có trọng lượng, có lúc toàn thân biến mất,
chỉ c̣n lại tâm, c̣n lại chánh niệm ở đó. Hành giả có thể không c̣n
ư thức và không hay biết được
những ǵ
xung quan
nữa.
Trong
một số trường hợp, hành giả thấy tất cả các hiện tượng thân tâm dừng lại
và biến mất, nên vội cho đó là đắc đạo. Một đặc điểm của sự giác ngộ
là thân hành và tâm hành đều diệt, song ở giai đoạn này th́ chưa
phải là giác ngộ thực sự. Trong một sát na ngắn ngủi tâm chợt dừng
lại, có một khoảng trống nào đó, song ngay lập tức bạn lại chánh
niệm trở lại và thấy rằng có một khoảng trống vừa qua.
Sự khác nhau giữa hiện
tượng này và sự đắc đạo thực sự là sau khi thấy khoảng trống đó,
độ sắc bén và sáng suốt
của bạn
vẫn như
cũ, bạn
thấy lại cũng
vẫn những
hiện tượng
y hệt
như
cũ, theo một cách như cũ không hề thay đổi.
Sau khoảnh khắc giác ngộ thực sự, khi nó xảy ra, tâm sẽ chậm lại một
chút, không c̣n sắc bén như cũ nữa. Mặc dù niệm và định vẫn có đó,
nhưng tâm không c̣n sắc bén và nhanh như trước nữa. Như vậy, khoảng
trống này không phải là sự giác ngộ thực sự.
Đôi khi sự an tịnh rất mạnh, thân và tâm trở nên rất an tịnh và rồi trở
thành mất nhận thức, chỉ trong một khoảnh khắc rất ngắn. Có lúc định rất sâu và đề mục thiền trở thành mờ nhạt và biến mất, tâm trở
nên trống rỗng, không hay biết ǵ nữa. Thân vẫn giữ nguyên như vậy,
rất tĩnh
lặng, không
lay động
cũng
không đổ gục xuống. Khi buồn ngủ th́ thân thường đổ rũ xuống. Nhưng với
loại định này, thân không hề đổ xuống, mặc dù có lúc bạn cũng bị
buồn ngủ. Bởi có tâm xả và quân b́nh, bạn không c̣n phải lo lắng ǵ
đến thiền nữa. Lúc đầu th́ bạn lo lắng rất nhiều: “Tôi có chánh niệm
không? Tâm tôi có c̣n ở đây không? Tâm có bị phóng đi đâu không?”.
Có rất nhiều suy nghĩ và lo lắng cho thiền tập, song ở giai đoạn
này, bạn không c̣n suy nghĩ hay lo lắng bất cứ điều ǵ nữa
---o0o---
Phần
2:
Tuệ thứ
tư: Kinh
nghiệm sự sanh
diệt của các hiện tượng. Phân biệt đạo và phi đạo
Cũng trong giai đoạn này,
nhiều chứng bệnh trong cơ thể biến mất, không chỉ là bệnh thần kinh
mà các bệnh của thân cũng khỏi hẳn. Trạng thái an tịnh, khinh an và
hỷ lạc có tác dụng chữa bệnh rất hiệu quả. V́ vậy bạn thường nghe
nói nhiều người đă khỏi bệnh nhờ hành thiền. Nhiều chứng bệnh sợ
hăi, lo lắng vô cớ, mất ngủ cũng được chữa khỏi hẳn. Khi có nhiều sự
tĩnh lặng và an tịnh trong tâm, hành giả sẽ không thích đến những
nơi đông người, ồn ào, náo nhiệt nữa. Họ cố tránh mọi hoạt
động và
những xáo
dộng
không
cần thiết. Họ chỉ muốn
tránh đi thật xa, sống ở một nơi thật yên tĩnh và b́nh an để tập
trung hành thiền.
Tuệ thứ tư:
Kinh
nghiệm sự sanh diệt của các hiện tượng. Phân biệt đạo và phi đạo.
Tâm trở nên rất an tịnh và
thư giăn, thư giăn hơn nữa và rồi sau một lúc không c̣n
ư thức.
Khi quá
thư giăn,
bạn sẽ
trở nên mất ư thức. Đôi khi đó chỉ là một giấc ngủ say thật
sự! Giấc ngủ này rất khác với giấc ngủ b́nh thường. Thông thường khi
bạn ngủ th́ thân không thể giữ được tư thế ngồi, nó sẽ trở nên ẻo
lả, mềm rũ ra. Khi bạn hành thiền, tâm có thể rất tĩnh lặng và an
lạc, định rất mạnh,
khi buồn ngủ
thân không
hề
rũ
xuống, mà vẫn giữ nguyên được tư thế cũ. Khi bạn thức dậy, tâm vẫn rất
trong sáng, rơ ràng và không hề cảm thấy lờ đờ, mệt mỏi. Bạn lại sẵn
sàng để hành thiền tiếp. Nhiều người tôi biết, và ngay cả tôi đôi
khi cũng kinh nghiệm được điều đó, sau khi ngồi thiền nhiều tiếng
trong ngày, có lúc bị rơi vào giấc ngủ, đôi khi rất lâu. Khi thức
dậy tâm vẫn rất tươi mới, sảng khoái, trong
sáng và tỉnh thức và khoảnh khắc thức dậy, bạn tự động hành
thiền trở lạ. Thông thường khi người ta thức giấc, họ không thực sự
biết là ḿnh đă tỉnh. Các ư nghĩ mơ màng c̣n tiếp diễn cả một lúc
lâu rồi họ mới tỉnh dậy được; song đối với các thiền sinh th́ ngay
khi họ vừa
thức dậy,
tâm đầu
tiên
sanh
khởi là hành thiền ngay; thiền sinh sẵn sàng để hành thiền. Đó là một
điều rất
tốt.
Điều ngạc nhiên hơn nữa là
ở giai đoạn này một số người có thể hành thiền cả trong giấc mơ nữa.
Bạn đă bao giờ nghe nói đến điều đó chưa? Bạn có thể hành thiền
trong mơ được không? Sư phụ tôi thường hỏi kiểm tra tôi thế này:
“Con có hành thiền trong khi mơ không”. Tôi đáp: “Bạch thầy, con vẫn
chưa được ạ”. Sư phụ nói: “Được rồi, vậy hăy cố gắng chánh niệm hơn
nữa, chánh niệm hơn, hành thiền nhiều hơn nữa”. Tôi cố gắng hành
thiền nhiều hơn, và rồi một lần tôi đă hành thiền được
trong mơ.
Tôi cảm
thấy rất
hạnh
phúc bởi
v́ tôi
đă có
cái để
tŕnh với
Sư phụ. Chúng ta thường muốn làm thầy ḿnh hài ḷng và muốn
thầy nghĩ thật tốt về ḿnh. V́ vậy tôi vội t́m đến cốc của người,
ngồi chờ bên ngoài cho đến khi Sư phụ đi ra và nói: “Con có điều này
muốn tŕnh với thầy”. Hồi đó tôi c̣n rất trẻ và vẫn c̣n rất trẻ con
nữa, rất ấu trĩ, nhưng bởi v́ rất vui nên tôi phải nói cho thầy
biết. Sư phụ ngồi nghe rất hài ḷng, mỉm cười và nói: rất tốt, chánh
niệm của con đă mạnh hơn rồi đó.
Thậm chí chúng ta c̣n có
thể hành thiền một cách vô thức nữa, nó trở thành
một thói
quen. Trong
giấc
mơ,
chúng ta
thường mơ thấy những việc
ḿnh làm ban ngày.
Một bác sỹ có thể mơ đang mổ xẻ, khám bệnh, tiêm thuốc hay tiếp bệnh
nhân. Người bán hàng có thể nằm mơ đang bán hàng cho khách. Một sinh
viên th́ mơ thấy ḿnh
đang làm bài thi. Có lần
tôi cũng nằm mơ đang làm bài thi, thật kinh khủng, tôi quên mất điều
ǵ đó và không thể trả lời câu hỏi thi được! Điều tự nhiên là chúng
ta hay mơ thấy những việc
thường làm. Như vậy, hành thiền trong giấc mơ là môt dấu hiệu cho
thấy hành thiền đang trở thành
một thói quen của
bạn. Giây phút vừa thức
dậy là bạn đă sẵn sàng hành thiền.
Sau một
thời gian,
bạn sẽ
không
c̣n nằm mơ nhiều nữa, rất ít khi bạn mơ, bạn ngủ và khi thức dậy là đă
sẵn sàng hành thiền ngay; ở khoảng giữa không có giấc mơ nào cả.
Một vị Alahán không c̣n nằm
mơ nữa. Mơ là dấu hiệu cho
thấy vẫn c̣n
một loại
tâm si
nào đó,
có một
cái ǵ đó vô thức vẫn đang xảy ra. Si có nhiều nghĩa: ngu
đần, mê lầm, rối trí, muội lược và ảo tưởng.
Đối với một
vị A
la hán th́ không c̣n có cái ǵ là vô thức nữa.
Vô thức và hữu thức đă trở thành một. Đối với hầu hết mọi
người, vô thức nhiều hơn hữu thức. Rất nhiều ư nghĩ vô thức vẫn tiếp
diễn ngay cả khi chúng ta đang thức. Nhưng
đối với
người hành
thiền,
những ư nghĩ đó sẽ trở
thành hữu
thức.
Đó chính là cách hành giả
có thể chuyển hóa vô thức của ḿnh, đây là một quan điểm hết sức kỳ
lạ đối với các nhà tâm lư học. Đó chính là cách thiền tác động đến
tính cách của con người. Không có cách nào dể làm được điều này hiệu
quả hơn hành thiền. Nhiều loại bệnh tâm thần, suy nhược thần kinh đă
biết mất; bạn không cần phải làm bất cứ việc ǵ với chúng. Đây thực
sự là một cách rất tốt để phát triển các đức tính tốt và vượt qua
những thói quen xấu của ḿnh. Rất nhiều người hành thiền đến giai
đoạn này đă bỏ thuốc
lá. Hút thuốc
thực ra
không
phạm một giới nào cả, nhưng nhiều người đă bỏ. Thậm chí họ c̣n bỏ không
uống quá nhiều trà và cà phê nữa. Bất cứ loại dính mắc hay nghiện
ngập nào cũng đều bị từ bỏ. Thực ra bạn cũng không cần phải cố để
bỏ, mà chỉ v́ không thấy thích nữa. Rất nhiều người tôi biết, trong
đó có cả một số bạn bè của tôi, trước đây nghiện rượu và
hút thuốc rất nhiều, nhưng
sau đó
họ bỏ tất cả.
Cũng trong giai đoạn này,
nhiều chứng bệnh trong cơ thể biến mất, không chỉ là bệnh thần kinh
mà các bệnh của thân cũng khỏi hẳn. Trạng thái an tịnh, khinh an và
hỷ lạc có tác dụng chữa bệnh
rất hiệu
quả. V́
vậy bạn
thường
nghe nói nhiều người đă khỏi bệnh nhờ hành thiền. Nhiều chứng bệnh sợ
hăi, lo lắng vô cớ, mất ngủ cũng được chữa khỏi hẳn. Khi có nhiều sự
tĩnh lặng và an tịnh trong tâm, hành giả sẽ không thích đến những nơi đông người, ồn ào, náo nhiệt nữa. Họ cố tránh mọi hoạt động
và những xáo dộng không cần thiết. Họ chỉ muốn tránh đi thật xa,
sống ở một nơi thật yên tĩnh và b́nh an để tập trung hành thiền.
Ở giai đoạn này, ngay cả
khi đi, bạn cũng có cảm giác như người ḿnh không có trọng lượng.
Bạn nghĩ đến việc bước chân và chân đă sẵn sàng bước tới. Bạn chánh
niệm hay biết điều đó
nhưng không
có cảm
giác về
sức
nặng. Bước này tiếp nối bước kia, bạn cảm giác như ḿnh đang đi trên
không khí vậy, cảm nhận mỗi sự xúc chạm của chân với sàn nhà. Bạn
cảm nhận được cảm giác xúc chạm nhưng không cảm nhận được trọng
lượng của chân, bạn có thể bước đi rất nhanh, có cảm giác như ḿnh
đang chạy. Không đau, nhức, không cảm thấy nóng nực. Tâm không hề
xao lăng. Say đây là một bài kệ trong kinh Pháp cú (Dhammapada),
một bài kệ rất hay:
Sunnagaram pavitthassa,
santacittassa bhikkhuno, amanusi rati hoti,
samma dhamma vipassato.
~Dhpd 373
Hành giả hành thiền ở một
nơi thanh vắng (Sunnagaram pavitthassa, santacittassa bhikkhuno).
Vị ấy cảm nhận được hỷ lạc và hạnh phúc cao thượng vượt ra ngoài
hạnh phúc thế gian (amanusi
rati hoti);
bởi v́ vị
ấy đă được nếm
hương vị của chánh Pháp (samma dhamma vipassato).
Yato yato sammasati,
khandhanam udayabbayam,
labhati piti
pamojjam amatam tam vijanatam.
~Dhpd
374
Mỗi khi quán sát ngũ uẩn,
thấy được sanh diệt (yato yato sammasati, khandhanam udayabbayam),
vị ấy cảm nhận được hỷ lạc và vị ngọt của Pháp (labhati
piti pamojjam). Đó là
liều
thuốc bổ cho những người có trí (amatam tam vijanatam).
Họ cảm nghiệm được đây chính là con đường đưa đến giải
thoát và tin tưởng pháp hành này chính là pháp hành dẫn đến giải
thoát.
Bạn đă chắc chắn về điều
đó. Đó là lư do tôi nói với các bạn khi đạt đến giai đoạn này là bạn
đă đi đúng đường, đă ở trong chánh đạo. Bạn đă thực sự học được cách
hành thiền; pháp hành của bạn đă vững mạnh. Giai đoạn này được gọi
là balava-vipassana;
balava nghĩa là rất
vững mạnh. Trước giai đoạn này
được gọi
là taruna-
vipassana; taruna
có nghĩa là c̣n
non yếu, chưa
lớn mạnh,
chưa chín
muồi.
Ở
giai đoạn này tuệ quán Vipassana
đă chín
muồi.
Một điều khác có thể làm hành giả xao lăng ở giai đoạn này là: v́ có rất
nhiều đức tin trong pháp hành, đă kinh nghiệm được hỷ lạc, sự nhẹ
nhàng khinh an và giải thoát, nên vị ấy muốn kể cho những người khác
và khuyến khích họ hành thiền.
“Hành thiền đi, bỏ hết mọi
công việc đi, những việc
đó bạn đă làm quá lâu rồi, bỏ hết đi mà hành thiền”.
Vị ấy muốn khuyến khích và dạy dỗ mọi người.
Nhưng nếu làm như vậy, bạn sẽ phả hỏng thành quả thiền tập
của ḿnh. Đừng
dừng lại
để đi
dạy
dỗ
người. Hăy tiếp tục thực
hành. Cũng đừng
đi khuyến
khích người
khác. Bạn có thể làm việc đó về sau này.
Nhưng thật khó để không làm điều đó; rất khó cưỡng lại.
Ở giai đoạn này bạn nhận ra tâm chánh niệm và đề mục, chúng đến với nhau
và xúc chạm nhau. Đề mục đến và quất vào tâm. Sự tiếp xúc
giữa tâm và đề mục trở nên rất rơ. Trước khi đạt đến giai đoạn này
chúng ta không hiểu được phassa-xúc là ǵ. Chúng ta đă nghe và suy
nghĩ về nó nhưng chưa thực sự kinh nghiệm được nó. Tuy nhiên, ở giai
đoạn này chúng ta thực sự nhận biết rơ ràng sự tiếp xúc giữa tâm và
đối tượng.
Ví dụ,
ở trước
giai
đoạn
này giống như ném một quả bong tennis vào tường. Nó đụng vào tường và
bật trở lại. Khi đạt đến đây, nó
giống như ném một quả bong rất dính. Khi đụng phải đối tượng,
nó liền dính chặt ở đó. Chánh niệm không hề xao lăng hay lang thanh
đi đâu cả. Trước kia, chúng ta phải cố gắng t́m đề mục để chánh
niệm, đến giờ chúng ta không phải làm điều đó. Đối tượng tự đến với
tâm, đến với chánh niệm và chánh niệm luôn có sẵn ở đó. Tuy nhiên, bởi v́ có quá nhiều hứng thú,
hỷ lạc, tinh tấn và sáng suốt nên chúng ta bị dính mắc vào trạng
thái đó và không muốn ngừng hành thiền, mặc dù về một mặt nào đó th́
rất tốt, v́ chúng ta không lười
biếng hay
xao lăng
nữa, song
mặt
khác chúng ta lại bị dính mắc với nó. Hầu hết chúng ta không nh́n ra
được đó là dính mắc.
Chúng ta chỉ nghĩ “Tôi rất
hạnh phúc khi hành thiền, tôi thích hành thiền”. Làm sao phân biệt
được? Khi không c̣n kinh nghiệm được những điều ấy nữa, chúng ta cảm thấy không vui, “Tôi muốn có nữa, làm thế nào để
tôi có lại được”. Đây là
những dấu hiệu cho thấy bạn đang bị dính mắc vào nó. Bạn càng muốn có, lại càng khó đạt được. Nó là một thứ rất xảo
quyệt. Ở giai đoạn này, điều quan trọng là bạn phải quan sát tác ư
của ḿnh. Nh́n rơ tâm ḿnh để thấy: “Bây giờ tôi đang cố làm điều
ǵ? Có phải đang cố để lấy lại
trạng thái đó không?
Đôi lúc, bạn phải ra ngoài, kiếm cái ǵ đó ăn chẳng hạn, và không nhiều
th́ bạn cũng bị phân tán, xao lăng mất một lúc. Khi ăn xong, bạn
quay lại hành thiền và mong là sẽ trở lại được trạng thái cũ, sự
mong đợi đó là một chướng
ngại.
Mỗi khi hành thiền chúng ta
phải tự nhắc nhở ḿnh:
“Tôi không cố gắng làm điều ǵ cả. Tôi không cố đạt đến chỗ nào.
Không cố kinh nghiệm lại những điều đă kinh nghiệm trước
kia; chỉ chánh niệm trên cái đang diễn
ra bây
giờ”. Điều
này rất
đơn
giản. Cái chúng ta làm
không phải là cố để đạt được cái ǵ hay đến được một chỗ nào đó.
Cái chúng ta làm là Ở ĐÂY VÀ BÂY GIỜ, chú ư vào bất cứ những
ǵ đang diễn ra trong hiện
tại.
Tuy vậy, mặc dù đă được thiền sư cảnh báo nhiều lần, nhưng khi mọi việc
diễn ra như thế chúng ta vẫn bị dính mắc, vẫn hiểu sai về nó. Đây là
một điều chúng ta phải vượt qua. Điều quan trọng nhất là không được
kẹt lại ở đó. Khi điều này xảy đến, nếu bạn ở bên cạnh thiền sư th́
hăy tŕnh pháp với thiền sư, thiền sư sẽ nói: “Hăy nh́n xem, con
đang bị dính mắc đấy, trước hết
hăy quan
sát chính
sự dính
mắc
ấy
đă”. Thiền sư sẽ không nói: bạn phải từ bỏ dính mắc, bởi v́ nếu chưa
nh́n ra dính mắc th́ làm sao mà từ bỏ được? Dính mắc xảy đến một
cách rất vô thức. Điều đầu tiên bạn cầm làm là
phải nhận thức được nó đă.
Lời khuyên này có ư nghĩa
rất lớn. Chúng ta muốn vượt qua được bất cứ điều ǵ th́ trước hết
phải ư thức được nó đă. Không ư thức được nó, chúng ta sẽ không thể
vượt qua được, dù nó là cái ǵ chăng nữa. Thiền sư sẽ khai thị cho
bạn: “Hăy nh́n vào tâm ḿnh để thấy được sự dính mắc đó”. Nếu bạn
thấy được nó, một thời gian nó sẽ yếu đi và biến mất, nhưng nó sẽ
c̣n quay lại, bạn
nh́n, nó
biến mất
và rồi
lại
quay trở lại. Sau một vài lần nó sẽ đi hẳn và không c̣n quay lại nữa.
Bạn sẽ
hiểu ra dính mắc vào những trạng thái an lạc, những kinh nghiệm tốt
này không phải là chánh đạo. Dính mắc là tà đạo, bất kể là dính mắc
vào cái ǵ. Ngay cả kinh nghiệm trong thiền, một khi dính mắc vào
chúng là bạn đă đi vào đường tà. Nếu thấy và vượt qua được những
dính mắc đó, bạn sẽ hiểu rằng: chú ư vào bất cứ những ǵ đang diễn
ra trong hiện tại, nơi thân tâm ḿnh, đó chính là chánh đạo.
Tri kiến này được gọi là
Đạo Phi đạo Tri
kiến Tịnh
(Maggamagga-
nanadassana-visuddhi).
Magga là
đạo, con đường;
amgga
là phi đạo, thấy
được đâu là đạo, đâu là phi đạo. Thấy được
hai điều
này một
cách thật
rơ ràng chính là
một loại thanh tịnh của tâm, Tri kiến tịnh-nanadassana-visuddhi,
visuddhi là thanh tịnh hóa.
Tất cả chúng ta, lúc này lúc khác, đều có khi lạc vào đường tà, nhưng
cũng không sao, điều đó sẽ phải xảy ra, chúng ta thấy rơ điều đó và
rồi quay lại chánh đạo. Phạm sai lầm, học được một bài học từ đó, tự
sửa ḿnh và tiếp tục làm điều đúng đắn, tốt đẹp. Đó là cách chúng ta
học hỏi và trưởng thành.
Không
phạm sai lầm và không sửa chữa sai lầm chúng ta sẽ
không thể học hỏi và trưởng thành được.
Như vậy phạm sai lầm th́ cũng được, không sao cả! Song đừng để sai lầm cũ lặp đi, lặp lại hoài.
Tôi sẽ tóm lược một cách
ngắn gọn lại như sau. Ở giai đoạn đầu tiên của thiền tập, trước tiên
bạn thấy được tính chất tự nhiên của các hiện tượng thân, tâm. Sau
đó, chúng ta sẽ thấy một cách tổng quát vô thường, bất toại nguyện
và không có linh hồn, không có thực thể thường hằng vĩnh cửu nào,
không thể làm chủ và trống rỗng. Sau nữa, chúng ta thấy sanh diệt
một cách rất sắc bén và rơ
ràng. Sau
đó bạn
sẽ thấy
được
sự
diệt. Khi mới thấy sanh diệt, chúng ta chỉ thấy được sự sanh nhưng không
thấy sự diệt. Trước khi thấy một hiện tượng cũ diệt đi, chúng ta đă
thấy một hiện tượng khác sanh lên; nó cứ tiếp tục như thế; một sự
việc sanh lên, rồi lại một sự việc khác nữa sanh lên. Sau đó chúng
ta thấy sự sanh diệt, rồi đến một khoảng trống, rồi đến một sanh
diệt nữa, rồi lại một khoảng trống. Chúng ta cũng thấy được cả
khoảng trống đó. Sau một thời gian, bạn chỉ c̣n chú ư đến sự diệt,
không chú ư nhiều đến sự sanh như trước nữa. Ở giai đoạn này, vô
thường sẽ trở nên ngày càng rơ, mọi thứ đều diệt đi rất nhanh chóng.
Khi thấy
vô thường thật rơ, trong tuệ giác đó bạn cũng thấy bất toại nguyện,
v́ sao? Bởi v́ nó sanh
diệt quá nhanh, làm sao có thể t́m được chút toại nguyện nào trong
đó, làm sao có thể nương tựa vào chúng
được?
Bạn có thể thấy rằng mỗi
khoảnh khắc đều là sự sống và cái chết. Bạn không thể giữ lại cái
ǵ, không có ǵ bạn có thể bám víu, bởi v́ mọi thứ đều sanh diệt quá
nhanh, chúng không chịu sự điều khiển của bạn.
Mọi kinh nghiệm, mọi cảm
giác, mọi tư tưởng, mọi sát na tâm, ngay cả tâm chánh niệm này, tất cả đều không ngừng hoại diệt.
Như vậy, ở giai đoạn này sự hành thiền của bạn đă trở nên rất hoàn
chỉnh. Bạn thấy đề mục sanh diệt. Bạn thấy tâm sanh diệt. Bạn
thấy tâm
thiền đang
kinh nghiệm, đang hay
biết tuệ quán
Vipassana này,
ngay cả
tâm chánh niệm
này cũng đều sanh diệt. Lúc đầu chúng ta thấy những hiện tượng của
thân không phải là tôi,
không phải của tôi; cái suy nghĩ này không phải là tôi, không phải
của tôi. Song bạn vẫn thấy có tâm chánh niệm; nó chính là tôi, tôi
đang hành thiền, tôi đang thấy, tôi đang chánh niệm. Khi đạt
đến giai
đoạn này,
bạn thấy
ngay
cả
tâm thiền, ngay cả tâm chánh niệm này cũng diệt. Có một ví dụ để diễn tả
điều này như sau. Khi hỏa thiêu một xác chết, lúc đầu bạn phải dùng
một que cời dài để lật cái xác. Khi xác đă thiêu xong, bạn vứt bỏ
que cời đi, vứt bỏ, không giữ lại ǵ cả, bạn không thể giữ lại cái
ǵ.
Ngay cả tâm thiền, tâm
chánh niệm cũng quy về vô thường; nó cũng là vô thường. Chỉ khi đó th́ “tri kiến về vô thường” mới đầy đủ.
Nếu bạn vẫn c̣n thấy bất cứ
phần kinh nghiệm nào là của ḿnh, th́ bạn vẫn chưa hoàn toàn hiểu và
kinh nghiệm được
vô thường
thực sự.
Ngay cả
tâm
chánh niệm và tuệ giác cũng
sanh và diệt, hành giả có thể lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy.
Trong kinh điển có nói rằng bạn nên lặp lại 10 lần, nhưng không nhất
thiết phải làm quá nhiều như vậy. Đối tượng, tâm và tuệ giác, thấy
cả ba đều sanh diệt, quán sát tuệ giác đó lại 10 lần, song không cần
phải đến tận 10 lần. Quán sát tuệ quánVipassana
này (vipassana-nana)
và thấy
nó là
vô thường
được
gọi là pativipassana.
Tuệ quán
vipassana đầu tiên
được
gọi là vipassana;
quán
sát tuệ
vipassana đó, trí tuệ thấy được nó là
vô thường
được
gọi là
pativipassana.
Chính tuệ vipassana này lại trở thành
đề mục
của thiền
vipassana. Tôi
nghĩ
như vậy là đă khá rơ vấn đề này rồi, đúng không?
Ngay cả
trí tuệ cũng vô thường, ngay cả chánh niệm cũng vô thường,
ở giai đoạn này bạn
có thể thấy rơ điều đó. Thậm chí
bạn cũng không tự
đồng hóa ḿnh với tâm chánh niệm nữa,
cũng như sau khi thiêu xác
xong th́ bạn đốt luôn que cời.
Tuần
tới tôi
sẽ nói
chi tiết
về tuệ
thứ 5, Bhanga-nana, Tuệ Diệt. Sau tuệ thứ tư, mọi việc sẽ trở
nên dễ dàng hơn nhiều. Nếu các bạn có câu hỏi nào về tầng tuệ thứ tư
này hoặc bất cứ điều ǵ chưa rơ, xin cứ hỏi.
Hỏi & đáp: Tuệ
giác thứ nhất được gọi là
Nama-rupa-pariccheda-nana,
Tuệ Phân Biệt Danh Sắc (1), thấy danh chỉ như một tiến tŕnh,
tâm là một tiến tŕnh và
sắc, thân vật lư là một tiến tŕnh.
Thấy nó
không phải
là một
chúng sanh, không phải đàn ông hay đàn bà, không màu sắc,
dáng h́nh. Cứng chỉ là cứng; bạn không thể nào nói tính chất cứng
này là của đàn ông hay của đàn
bà được. Cứng chỉ là cứng; mềm chỉ là mềm, chuyển động chỉ là
chuyển động, nó không phải là đàn ông hay đàn bà.
Những hiện tượng này không
có h́nh thể, dáng điệu, chúng chỉ là các tính chất. Xin hăy chú ư đến điều này. Khi hành
thiền chúng
ta chỉ
chú ư
đến
các tính chất, bất cứ
tính chất nào cũng không phải là một chúng sanh.
Danh cũng vậy, bạn có thể
thấy nó chỉ là những hiện tượng tâm lư; nó không phải là một chúng
sanh; tham không phải là đàn ông hay đàn bà; tham chỉ là ham muốn
một cái ǵ đó. Dù nó xảy ra ở các bạn hay ở trong tôi, nó cũng chỉ
là một tính chất “ham muốn”.
Tham cái này hay tham cái
kia, điều đó không thành vấn đề, nó chỉ thể hiện bản chất của ḷng tham.
Bất cứ một trạng thái tâm
nào cũng chỉ là một trạng thái tâm, không phải là chúng
sanh, không
phải một
thực
thể,
không phải đàn ông hay đàn bà. Thấy rơ danh sắc được gọi là
Nama-rupa- pariccheda-nana, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc. Có hai thứ
cùng diễn ra. Một là danh và cái kia là sắc.
Sau đó bạn có thể thấy nguyên nhân của những hiện tượng thân tâm này; đó
gọi là Paccaya-parigaha-nana,
Tuệ Phân Biện Nhân Duyên (2). Sau đó bạn thấy được vô thường,
khổ, vô ngă một cách tổng quát, đó gọi là
Sammasana- nana,
Tuệ Thẩm Sát (3). Ở giai đoạn này sẽ có rất nhiều suy nghĩ về Pháp
sinh khởi, suy nghĩ về danh, sắc, về vô thường, khổ, vô ngă. Sau
giai đoạn này, các suy
nghĩ như vậy sẽ không
c̣n nữa.
Bạn thấy
mọi thứ
sanh và
diệt
một cách rất sắc bén, rất rơ ràng; đó được gọi là
Udayabbaya-nana, Tuệ Sanh Diệt, là tầng tuệ thứ tư
(4). Tầng tuệ thứ năm được gọi là
Bhanga-nana, Tuệ Diệt (5): tan hoại, biến mất.
Hỏi & đáp:
Chưa, chưa đâu, mới chỉ
được có nửa đường thôi. Song thực ra đây mới chính là sự khởi đầu
thực sự của thiền Vipassana. Một yêu cầu để giác ngộ là phải
thấy sanh diệt thật rơ ràng.
Đây là
giai đoạn
cao của
thiền vipassana, giai đoạn
balava-
vipassana.
Hỏi & đáp:
Theo thứ
tự, đúng vậy, các tầng tuệ xảy đến theo tŕnh tự, song
một số người
tiến rất
chậm và
dừng
lại
ở một tầng tuệ rất lâu, rồi lại tiến rất nhanh ở một tầng tuệ khác và
lại chậm lại ở một tầng tuệ khác nữa. Nó xảy ra như vậy, nhưng vẫn
phải xảy ra theo thứ tự, theo đúng tŕnh tự như thế này. Không phải
tất cả mọi người đều kinh nghiệm y hệt như nhau. Một số người phải
mất rất nhiều thời gian ở tầng tuệ đầu tiên, tầng tuệ thứ hai và thứ
ba th́ lại rất nhanh, và có thể lại cần rất nhiều thời
gian để phát
triển tuệ
thứ tư.
Trong thực tế, tuệ thứ nhất phải mất nhiều thời giạn để phát
triển, tuệ thứ hai và thứ ba không cần lâu đến như vậy. Tuệ thứ tư
cần một số thời gian để phát triển
bởi v́ có khá
nhiều trở
ngại, nhiều sự dính
mắc và xao lăng trong quá
tŕnh kinh
nghiệm của
hành giả.
Sau
đó
nó có thể nhanh hơn cho đến một giai đoạn khác hành giả sẽ bị kẹt lại.
Tôi sẽ nói đến giai đoạn đó sau. Đây là tŕnh tự phát triển các tầng
tuệ giác.
Hỏi &
đáp:
Nếu không tiếp tục thực hành bạn sẽ mất hết các tuệ đă có. Trong hầu hết
trường hợp, bạn sẽ quay lại tuệ thứ nhất,
song sẽ không hoàn toàn trắng tay về số 0.
Hỏi & đáp:
Điều đó
có nghĩa là khi bạn đă vượt qua giai đoạn giác ngộ đầu tiên. C̣n
trước đó bạn vẫn có thể mất các tuệ giác đă đạt được. Song ngay cả
khi mất nó, bạn vẫn giữ lại được một
trí tuệ sâu sắc và ngay cả khi bạn chết, kinh nghiệm này
vẫn có
sức mạnh
rất
lớn. Tuy nhiên bạn vẫn có thể phục hồi lại. Đừng nản ḷng. Ngay cả khi
bạn đă ngừng hành thiền, bạn cũng không c̣n bị mê mờ, lẫn lộn được
nữa; bạn vẫn giữ được một mức chánh niệm nào đó và khi hành thiền
trở lại, bạn sẽ phát triển nó một cách dễ dàng.
Hỏi
& đáp:
Một
mức
độ
chánh
niệm nào
đó,
đúng
vậy. Chỉ
có
định
(Samadhi) thuần túy bạn sẽ không thể thấy được vô thường. Bạn chỉ
có thể thấy được tính chất, nhưng sẽ không thấy được sanh diệt. Bạn
có thể trụ tâm trên một khái niệm nào đó, hoặc thậm chí có thể trụ
tâm vào hư không. Tôi đă
thử làm như vậy một thời gian dài và rất
thích nó.
Bạn có
biết tại
sao
quán
hư không lại tốt như vậy không? Hư không không làm cho bạn đau khổ.
Đúng, bạn có thể làm như thế, nhưng khi bạn dính mắc vào nó và không
đạt được nó, bạn sẽ thấy đau khổ. Nhưng nếu tiếp tục thực hành, bạn
sẽ thể nhập vào trạng thái đó rất nhanh chóng.
Hỏi & đáp:
Bạn phải
tiếp tục thực
hành.
Khi đă đạt đến tầng tuệ thứ
tư bạn sẽ không thể
phạm
sai lầm nữa. Bạn
biết cần
phải làm ǵ. Đó là lư do
phần cuối tôi nói là bạn biết “đâu là đạo” và cũng biết “đâu là phi
đạo”.
Bạn không thể phạm sai lầm được nữa; cứ tiếp tục như vậy bạn sẽ tới được
chỗ đó. Điều đó thật là nhẹ nhơm, bởi v́ trước đó bạn không chắc
chắn về điều ḿnh đang làm, “có thể ḿnh đang phạm sai lầm, không
biết thế này là đúng hay sai”.
Hỏi & đáp:
Đừng, đừng định ra một thời
hạn cụ thể nào cả. Điều đó phụ thuộc vào độ rơ ràng, sáng suốt và cả
độ chín của bạn nữa. Một số người cần rất
nhiều thời
gian để
phát triển một tuệ giác đến độ chín của nó. Thậm chí ngay cả trong một tầng tuệ cũng có nhiều tầng mức khác nhau, tầng
tuệ thứ tư này chẳng hạn cũng có một phạm vi rất rộng. Ở
giai đoạn
đầu của
nó,
bạn
thấy sanh diệt và có rất nhiều suy nghĩ. Khi tiếp tục
tiến triển
th́ sanh
diệt ngày càng trở
nên rơ hơn, và sau một thời gian bạn sẽ thấy nó vượt qua được chỗ đó
và bạn thấy được sự diệt, thấy tan ră, hoại diệt nhiều hơn nữa.
Mỗi tầng tuệ đều có một
dải phạm vi, nó không chỉ phụ thuộc vào yếu tố thời gian, mà chất
lượng thiền tập
của bạn
cũng rất quan trọng.
Hỏi & đáp:
Nếu có thể phát triển các
tầng thiền an chỉ định th́ bạn có thể sử dụng an chỉ định đó để thực
hànhvipassana. Với sự giúp sức của định lực thâm hậu, bạn sẽ
tiến bộ rất nhanh,
bởi v́
khi đă
có một
nội tâm
rất
tập trung và định tĩnh, tâm sẽ không bị phân tán nữa. Song để phát triển
cá tầng thiền an chỉ định là một việc rất khó. Có hai cách thực
hành, cách thứ nhất là phát triển thiền an chỉ định trước, rồi sau
đó chuyển sang thực hành thiền
vipassana. Cách này được gọi là
samatha-yanika, nghĩa là đi bằng phương tiện thiền an
chỉ định. Tuy nhiên, trong thiền
vipassana thuần túy, đạt đến tầng tuệ thứ tư là bạn đă phát triển được một mức
định đủ mạnh, tương đương với các thiền an chỉ định. Chánh niệm lúc
đó rất mạnh.
Khi chánh niệm rất mạnh,
định tâm cũng trở nên thâm hậu. Cả hai đều tương
đương
nhau về
tính chất.
Bạn
không nhất thiết phải phát triển các tầng thiền an chỉ định.
Hỏi & đáp:
Tôi không
thể nói cho bạn một cách chính xác tại sao Đức Phật làm vậy, song
đối với thiền vipassana, nếu phát triển được định nó sẽ giúp
ích rất nhiều. Song nếu không thể phát triển được các tầng thiền an
chỉ định, bạn
vẫn có
thể thực
hành được thiền
vipassana. Cách
này được
gọi là sukkha-vipassana
(khô
tuệ), tức là thiền
vipassana không có an
chỉ định. Như vậy có hai cách thực hành, cách thứ nhất là phát triển
các tầng thiền định
trước
rồi
chuyển sangvipassana
sau. Cách thứ hai không cần
phát triển
các tầng
thiền an
chỉ
định
mà vào
thẳng thiền
vipassana; bạn có thể thực hành theo một trong hai cách đó.
Hỏi & đáp:
Khi thực
hành thiền an chỉ định, bạn lấy ǵ làm đề mục thiền cho ḿnh? Đó là
một loạt khái niệm, một ư niệm hay một h́nh ảnh. Chẳng hạn khi thực
hành thiền tâm từ, bạn có thể phát triển các tầng thiền, song đề mục
thiền của bạn là một người nào đó, bản thân đề mục nó cũng là một
loại thực tại,
gọi là samumuti-sacca, thực tại chế định. Khi muốn hành thiền
vipassana, bạn phải
từ
bỏ khái niệm hay ư niệm về người đó và chuyển sang quán sát các hiện tượng của thân hoặc
tâm. Đối với các
hành giả
thực hành
thiền an
chỉ
định, sau khi đă phát triển các tầng thiền định, hầu hết tất cả đều vào
thẳng niệm tâm (cittanupassana), chứ không phải qua niệm thân nữa
(kayanupassana), bởi v́ sau khi xuất thiền,
họ sẽ
quán sát
chính tâm
thiền đó cùng các đặc tính của nó. Họ bỏ đề mục thiền định và
quan sát ngay chính tâm thiền đó
---o0o---
Mục Lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05
06 |
07 |
08 |
09 |10
|11
BACK
|